Điều kiện khí hậu mùa Đông Xuân thuận lợi cho các dịch bệnh truyền nhiễm phát sinh và phát triển, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp, đường tiêu hóa như bệnh Tay chân miệng, Sởi, Rubella, Ho gà, Não mô cầu, Thuỷ đậu, các bệnh Cúm, Tiêu chảy, Liên cầu lợn, các bệnh về đường hô hấp,.... Vì vậy mỗi người dân cần chủ động phòng tránh dịch bệnh mùa đông xuân trước khi có nguy cơ bùng phát thành dịch lớn.

Ts.Bs Trần Văn Kiệm - Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Nam cho biết, khí hậu mùa Đông  Xuân thuận lợi cho các dịch bệnh truyền nhiễm phát sinh, phát triển, nhất là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp, đường tiêu hóa... Do vậy, mỗi người dân phải có ý thức giữ gìn sức khỏe, vệ sinh môi trường sống; chú ý các vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiêm đầy đủ vắc xin phòng bệnh, đúng lịch và đủ liều.

302842 chu dong phong chong

Các bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người giai đoạn này cũng có xu hướng gia tăng. Các bệnh như Sởi, Bạch hầu, Ho gà... có nguy cơ xảy ra các ổ dịch tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế vào mùa Đông Xuân: mọi người cần giữ ấm cơ thể khi thời tiết chuyển lạnh; tránh tiếp xúc với những người đang có dấu hiệu bị các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp như: Sởi, Rubella, Ho gà, Não mô cầu, Thủy đậu, Cúm...; đảm bảo an toàn thực phẩm, ăn nhiều hoa quả để giúp cơ thể tăng cường vitamin, nâng cao sức đề kháng, ăn cân đối các nhóm dưỡng chất: tinh bột, chất đạm, chất béo, vitamin và khoáng chất; đảm bảo vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay với xà phòng, vệ sinh mũi, họng hàng ngày,...

Mùa đông - xuân là điều kiện tốt nhất để các bệnh do siêu vi trùng có thể lây lan, nhất là bệnh cúm theo mùa, do vậy, các bậc phụ huynh nên đưa con em đến các cơ sở y tế để tiêm phòng là tốt nhất. Bên cạnh việc tiêm chủng đầy đủ vắc xin theo độ tuổi, Ts.Bs Trần Văn Kiệm còn cho biết, người dân cần có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý, sử dụng thực phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đầy đủ chất dinh dưỡng, giữ ấm cơ thể và hạn chế tiếp xúc đông người để tăng hiệu quả phòng bệnh. Khi có dấu hiệu mắc bệnh, đến ngay các cơ sở y tế để được khám, tư vấn và điều trị kịp thời./.

Thùy An 

Khoa Truyền thông - Giáo dục sức khỏe

Bác sĩ CKI Nguyễn Thị Kim Vân

Phó Giám đốc CDC Quảng Nam

Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng của người mẹ đang nuôi con bú khá cao, thậm chí cao hơn so với thời kỳ đang mang thai. Suốt 9 tháng thai kỳ, những loại thực phẩm bạn dung nạp chính là nguồn cung cấp dưỡng chất cho cả bạn lẫn em bé. Nhưng sau khi sinh, chế độ ăn uống cũng quan trọng không kém, bởi nó giúp cơ thể bạn phục hồi và cung cấp năng lượng cần thiết để chăm sóc thiên thần bé nhỏ của bạn.
Đảm bảo tính đa dạng về thực phẩm
Theo Hướng dẫn quốc gia dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú, Bộ Y tế, sau khi sinh, người mẹ cần cho con bú sớm (trong vòng 1h đầu sau sinh), cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú đến 24 tháng hoặc lâu hơn.
Trong giai đoạn sau sinh - nuôi con bú, chế độ dinh dưỡng của người mẹ có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của trẻ. Cụ thể, chế độ dinh dưỡng tốt giúp bà mẹ có đủ sữa nuôi con. Vì vậy, bà mẹ sau sinh cần có một chế độ dinh dưỡng hợp lý, kết hợp với vận động, nghỉ ngơi khoa học và có tâm lý thoải mái.
Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã khẳng định dinh dưỡng của người mẹ có ảnh hưởng nhất định tới lượng sữa và thành phần vi chất có trong sữa mẹ. Cụ thể, nếu chế độ ăn uống của người mẹ thiếu vitamin, đặc biệt là vitamin A, D và B1 thì sữa mẹ cũng sẽ thiếu các vitamin này. Bên cạnh đó, trong 6 tháng đầu đời, lượng kháng thể của trẻ được cung cấp trực tiếp qua sữa mẹ. Vì vậy, việc đảm bảo cung cấp đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết cho người mẹ sẽ giúp phòng ngừa bệnh tật tốt nhất cho bé. Những trẻ được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu sẽ phát triển toàn diện về trí tuệ và thể chất, có sức đề kháng tốt, ít mắc các bệnh nhiễm trùng và khi lớn lên ít mắc các bệnh mạn tính không lây.
Trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM), nhất là trong 6 tháng đầu tiên sau khi sinh, chế độ dinh dưỡng của bà mẹ cần đảm bảo cho người mẹ tiết đủ sữa với chất lượng tốt để NCBSM và duy trì tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe của chính mình.

20220529 082206 703495 Phu nu sau sinh mo 1 .max 800x800
Chế độ ăn nhiều hơn về số lượng (đủ nhu cầu) và đảm bảo tính đa dạng thực phẩm (có ít nhất 5 trong 8 nhóm thực phẩm/bữa chính). Thức ăn dễ tiêu hóa, giàu chất dinh dưỡng. Khẩu phần cả ngày của bà mẹ cho con bú nên chia làm nhiều bữa trong ngày (3-6 bữa/ngày). Uống đủ nước: 1,5 - 2 lít nước/.
Nhu cầu năng lượng của bà mẹ trong thời kỳ nuôi con bú còn phụ thuộc vào tình trạng hoạt động thể lực và mức tăng cân trong thời kỳ mang thai, cụ thể:
Người mẹ trước và trong thai kỳ có chế độ dinh dưỡng tốt, đạt mức tăng cân từ 10-12kg: Cần ăn nhiều hơn để đảm bảo nhu cầu năng đạt mức 2260 Kcal/ngày đối với người lao động nhẹ và 2532 Kcal/ngày đối với người lao động trung bình.
Người mẹ trước và trong thai kỳ có chế độ dinh dưỡng chưa tốt, có mức tăng cân ít hơn 10kg: Cần phải cố gắng ăn nhiều và đa dạng hơn các loại thực phẩm khác nhau trong chế độ dinh dưỡng của mẹ cho con bú để đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng khi đang nuôi con bú.
Nhu cầu về chất đạm (Protein): Lượng chất đạm cần được cung cấp đầy đủ trong quá trình cho con bú theo khuyến cáo cho người Việt Nam: Trong 6 tháng đầu, ăn thêm 19 g/ngày so với nhu cầu bình thường, nâng tổng số lên 79 g/ngày. Trong 6 tháng tiếp theo, thêm 13 g/ngày, nên tổng lượng chất đạm cần cung cấp trong 1 ngày là 73 g.
Lượng protein động vật nên đạt ≥ 35% protein tổng số. Trong chế độ dinh dưỡng của mẹ cho con bú, mẹ nên lựa chọn các thực phẩm có protein chất lượng cao như thịt, cá, trứng, sữa, đậu đỗ…Số lượng đạm trong thực phẩm có thể ước tính như sau: cứ 100 g thịt/cá cung cấp khoảng 20 g đạm (protein), 100 g đậu phụ cung cấp khoảng 10 g đạm. Mẹ cho con bú nên sử dụng 6,5 đơn vị sữa/ngày (uống sữa hoặc ăn các chế phẩm từ sữa như sữa chua, phô mai). Nên ăn cá ít nhất 3 lần/tuần.
Nhu cầu chất béo (Lipid): Lượng chất béo ăn vào cần cung cấp 25-30% năng lượng khẩu phần. Trong chế độ dinh dưỡng của mẹ cho con bú, khuyến khích mẹ sử dụng các chất béo có nhiều các axit béo không no chuỗi dài nhiều nối đôi như omega 3, omega 6, EPA, DHA (có nhiều trong một số loại dầu thực vật, dầu cá, một số loại cá mỡ). Lượng chất béo này rất quan trọng cho sự phát triển tối ưu trí não và thị lực của bé. Cứ 1g chất béo sẽ cung cấp năng lượng vào khoảng 9 Kcal.
Vitamin và khoáng chất: Các vitamin và khoáng chất rất cần bổ sung cho người mẹ nuôi con bú. Ngoài việc bổ sung bằng các thực phẩm tự nhiên trong bữa ăn hàng ngày cần đủ rau xanh (≥ 320 g trái cây, ≥ 320 g rau củ/ngày) và đủ chất xơ để tránh táo bón.
Một số lưu ý khác về dinh dưỡng cho mẹ sau sinh
Sau khi sinh, bạn không nên kiêng khem khắt khe mà ngược lại, cần ăn uống đầy đủ, đa dạng để cơ thể được cung cấp đầy đủ các vitamin và khoáng chất.
Sinh nở khiến bạn mất một lượng máu lớn, dẫn đến hiện tượng thiếu máu, thiếu sắt. Vì vậy, cần bổ sung sắt trong chế độ ăn hàng ngày. Sắt có nguồn gốc động vật: có trong các loại thực phẩm như gan, thịt bò, thịt gà, hải sản có vỏ cứng, trứng…Sắt có nguồn gốc thực vật: từ đậu phụ, các loại đậu, rau sẫm màu (cải bó xôi, bông cải xanh, rau cải ngọt…)
Khi cho con bú, các loại thực phẩm bạn ăn có thể truyền qua nguồn sữa cho bé. Vì vậy hãy cẩn thận với các loại thực phẩm như: Rượu bia: hệ tiêu hóa và hệ thần kinh của bé còn rất non nớt, cần được bảo vệ khỏi bất kỳ lượng rượu bia nào dù nhỏ. Trà, cà phê: không nên uống quá nhiều loại thức uống này khi đang cho con bú, bởi chúng chứa chất kích thích có thể khiến bé bứt rứt, khó chịu, không ngủ được. Cá chứa thủy ngân: thủy ngân trong sữa mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển thần kinh của bé, vì vậy nên hạn chế ăn những loại cá chứa nhiều thủy ngân như cá ngừ, cá kiếm, cá mập.
Bạn cần theo dõi phản ứng của bé sau khi bạn ăn một loại thực phẩm nào đó, bởi có thể chúng khiến bé bị dị ứng với những biểu hiện như: Không bú tốt, không tăng cân đều. Tiêu chảy, khó tiêu. Nổi mẩn đỏ (quanh miệng, ở má, nếp gấp tay hay chân…) . Sưng mắt, môi hay mặt. Chảy nước mũi. Nôn trớ
Mỗi bé có thể nhạy cảm với những loại thực phẩm khác nhau. Một số loại thực phẩm dễ gây dị ứng gồm: thịt bò, sữa bò, trứng, các loại động vật vỏ cứng như sò, tôm, cua,…

Nguyên tắc phòng, chống tác hại của thuốc lá

            Căn cứ vào Điều 3 Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá 2012 quy định về nguyên tắc phòng, chống tác hại của thuốc lá như sau:

- Thực hiện các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá kết hợp với biện pháp kiểm soát để giảm nguồn cung cấp thuốc lá; nâng cao nhận thức về tác hại của thuốc lá nhằm giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá; thực hiện việc phối hợp liên ngành, huy động xã hội và hợp tác quốc tế trong phòng, chống tác hại của thuốc lá; bảo đảm quyền của mọi người được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá và được thông tin đầy đủ về tác hại của thuốc lá.

Những địa điểm cấm hút thuốc lá

            Căn cứ theo Điều 11 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá 2012 quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn gồm:

Địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn trong nhà và trong phạm vi khuôn viên bao gồm:

- Cơ sở y tế;

- Cơ sở giáo dục;

- Cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành riêng cho trẻ em;

- Cơ sở hoặc khu vực có nguy cơ cháy, nổ cao.

Địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn trong nhà bao gồm:

- Nơi làm việc;

Trường cao đẳng, đại học, học viện;

- Địa điểm công cộng, trừ các trường hợp địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn trong nhà, trong phạm vi khuôn viên và địa điểm cấm hút thuốc lá trong nhà nhưng được phép có nơi dành riêng cho người hút thuốc lá.

Vậy hút thuốc lá nơi công cộng là hành vi vi phạm hành chính và bị xử phạt như thế nào?

w hut thuoc la 1 131

            Căn cứ theo khoản 1 Điều 25 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá như sau:

Vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá: cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm. Trường hợp hút thuốc lá trên tàu bay thực hiện theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Theo đó, hành vi hút thuốc lá nơi công cộng là hành vi vi phạm hành chính và người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Ngoài ra, một số hành vi vi phạm khác về địa điểm cấm hút thuốc lá bị xử phạt như sau:

            Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: không có chữ hoặc biểu tượng “cấm hút thuốc lá” tại địa điểm cấm hút thuốc lá theo quy định của pháp luật; không tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện đúng quy định về cấm hút thuốc lá tại địa điểm thuộc quyền quản lý, điều hành;

            Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây tại nơi dành riêng cho người hút thuốc lá; không có phòng và hệ thống thông khí tách biệt với khu vực không hút thuốc lá; không có dụng cụ chứa mẩu, tàn thuốc lá; không có biển báo tại vị trí phù hợp, dễ quan sát; không có thiết bị phòng cháy, chữa cháy./.

Nguồn tham khảo: website Bộ y tế; Bộ Tư pháp

 

Ts.Bs Trần Văn Kiệm–

Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Nam

            Được sự quan tâm chỉ đạo, điều hành của Sở Y tế; sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể và chính quyền địa phương trong tỉnh; sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật của các Cục, Vụ, Viện, Bộ Y tế; sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức viên chức, trong năm 2023, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Nam (CDC Quảng Nam) đã thực hiện đồng bộ các hoạt động, giải pháp tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Kết quả đạt được

            Tính từ 01/01/2023 đến nay toàn tỉnh ghi nhận 231 ca COVID-19, cụ thể: 231 ca bệnh cộng đồng, 00 ca lây nhiễm thứ phát (đã được giám sát, cách ly trước khi phát hiện), 0 ca xâm nhập từ các tỉnh và 0 ca nhập cảnh.

            Tính đến nay, không xảy ra các loại dịch nguy hiểm như: Cúm A/H5N1, Tả, dịch Hạch, Liên cầu lợn, Zika… trên địa bàn tỉnh. Hầu hết 28 bệnh truyền nhiễm có số mắc đều giảm so với cùng kỳ năm 2022. Một số bệnh tăng, trong đó, Sốt xuất huyết ghi nhận 2.216 ca mắc ở 165 xã/phường/thị trấn tại 18/18 huyện/thị/thành phố, số mắc giảm 7,5 lần so với cùng kỳ năm 2022 (16.614 ca mắc/01 TV); phát hiện và xử lý 42 ổ dịch tại 32 xã/phường/thị trấn, giảm so với cùng kỳ năm 2022 (305 ổ dịch); theo đó, CDC đã tham mưu các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, ban hành kế hoạch triển khai đồng bộ các biện pháp mạnh về truyền thông giáo dục, vệ sinh môi trường, phun hoá chất diệt muỗi chủ động Hưởng ứng "Ngày ASEAN phòng, chống sốt xuất huyết" lần thứ 13 năm 2023. Nhìn chung, Sốt xuất huyết giảm sâu so với cùng kỳ, tuy nhiên, số mắc theo tuần có xu hướng tăng nhẹ. Bệnh Tay chân miệng, tính đến nay ghi nhận 1.145 ca mắc gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2022 (549 ca mắc), 01 ổ dịch, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ, số mắc cao nhất ở tuần 30 và giảm dần các tuần cuối năm. Bệnh nhân Sốt rét (BNSR) mới phát hiện 03 ca, tăng so với cùng kỳ năm 2022 (03/01ca), không có trường hợp BNSR ác tính, tử vong.

9 11 sot xuat huyet 3 1667980871003600385902

            Hoạt động phòng, chống các bệnh không lây nhiễm (BKLN) như: Đái tháo đường, Tăng huyết áp, Ung thư tiếp tục duy trì. Mạng lưới phòng chống BKLN tại tuyến xã với việc kết hợp nguyên lý y học gia đình và quản lý, tư vấn, chăm sóc, điều trị các BKLN. Số bệnh nhân Tăng huyết áp mới phát hiện là 10.785, tăng 3,32% so với cùng kỳ năm 2022 (10.438 ca), quản lý điều trị 67.405 người mắc bệnh Tăng huyết áp; bệnh nhân Đái tháo đường mới phát hiện là 3.214 ca, tăng 1,58% so với cùng kỳ năm 2022 (3.164 ca), quản lý điều trị 20.124 người mắc; Tổng số phụ nữ Ung thư cổ tử cung (K.CTC) được khám 1.208 người, số phụ nữ được làm test VIA/VILY: 1.208, âm tính: 1.208. VIA (+) không phát hiện trường hợp nào; các ca bệnh lý cần can thiệp và khám chuyên sâu đều được tư vấn và giới thiệu lên tuyến trên khám và điều trị.

            Công tác phòng và chống rối loạn do thiếu Iod được chú trọng, đã có 1.630 học sinh 8 - 10 tuổi được khám, phát hiện 48 em nghi ngờ mắc bệnh Bướu cổ, chiếm 2,9%, trong đó, Bướu giáp độ IA, Bướu giáp khác (không có thùy phải tuyến giáp) là 33 em (69%); Bướu giáp nhân/hỗn hợp 15 em (31%). Tỷ lệ mắc Bướu cổ thấp, đạt mục tiêu chương trình phòng chống Bướu cổ đề ra (mục tiêu tỷ lệ Bướu cổ học sinh từ 8-10 tuổi ≤ 8%). Bệnh nhân phát hiện mắc BKLN, tùy từng trường hợp cụ thể để được tư vấn, giới thiệu tuyến trên, xác định chẩn đoán và đưa vào chương trình quản lý, theo dõi, điều trị tại địa phương.

            Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) tiếp tục được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh. Theo đó, tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 81,2% kế hoạch năm; tỷ lệ tiêm vắc xin phòng bệnh viêm gan B < 24h cho trẻ sơ sinh đạt 100 % kế hoạch năm; tiêm đủ AT2+ cho phụ nữ có thai đạt 81,8 % kế hoạch năm; tiêm chủng các loại vắc xin Sởi 2/MR đạt 70,6 % kế hoạch năm; tiêm chủng vắc xin DPT4 đạt 56,3 % kế hoạch năm; tiêm chủng vắc xin VNNB đạt 94,4 % kế hoạch năm; tiêm chủng vắc xin IPV đạt 80,7 % kế hoạch năm. Toàn tỉnh đã giám sát phát hiện 45 ca chết sơ sinh, không phát hiện ca sốt phát ban nghi Sởi/Rubella. Các bệnh Ho gà, UVSS, Sởi, Rubella không xảy ra.          

            Các hoạt động Chăm sóc sức khỏe sinh sản được duy trì triển khai thường xuyên tại các cơ sở y tế được triển khai ngay từ đầu năm, kết quả đạt được cao hơn so với cùng kỳ năm 2022. Bên cạnh đó, hoạt động cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em duy trì hiệu quả, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi 20% 20,80%; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi 11% DTTS: 5% 9,50%; tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2500gram) 8% 1,2%; tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh 80% 97.0%; tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 25% 87,3%; tỷ lệ phụ nữ mang thai được cung cấp viên sắt/folic/đa vi chất từ khi mang thai đến 1 tháng sau sinh 70% 94,4%; tỷ lệ trẻ 6-60 tháng được uống vitamin A 90% 99,4%; tổ chức tập huấn cho 100% cán bộ tham gia thực hiện chương trình tuyến tỉnh, huyện xã… 

            Công tác Phòng chống HIV/AIDS được thực hiện thường xuyên, tính đến thời điểm hiện tại, số trường hợp nhiễm HIV còn sống 584, số bệnh nhân đang điều trị nghiện là 462, giảm so cùng kỳ 2022; số bệnh nhân nhiễm HIV phát hiện mới là 40, giảm hơn 1 ca so cùng kỳ 2022; không có ca tử vong do HIV/AIDS; Bên cạnh đó, chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone tiếp tục mang lại hiệu quả đối với người nghiện, tuy nhiên, số người tham gia điều trị có phần chững lại. Nhìn chung, công tác phòng, chống HIV/AIDS triển khai tốt từ tỉnh đến cơ sở, tình hình dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh vẫn đang được khống chế…

Phương hướng nhiệm vụ năm 2024

            Năm 2024, CDC Quảng Nam đặt ra những mục tiêu quan trọng để thưc hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, góp phần tích cực vào công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cáo sức khỏe nhân dân.

             Mục tiêu lớn nhất vẫn là chủ động phòng, chống dịch bệnh, phát hiện sớm, kịp thời khống chế không để dịch lớn xảy ra; giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khống chế tốc độ gia tăng các bệnh không lây nhiễm phổ biến, bệnh tật lứa tuổi học đường, bảo đảm sức khỏe cộng đồng; khống chế và giảm tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng để giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; quản lý các cơ sở lao động trên địa bàn tỉnh về vệ sinh lao động, phòng chsống bệnh nghề nghiệp; giảm tỷ lệ mắc các bệnh nghề nghiệp; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em.

            Đối với hoạt động phòng chống Sốt xuất huyết, CDC Quảng Nam tập trung chủ động triển khai các biện pháp cụ thể để phòng chống bệnh Sốt xuất huyết, không để lây lan trên diện rộng; thường xuyên kiểm tra, giám sát các ổ dịch, khu vực nguy cơ cao và triển khai vệ sinh môi trường, diệt bọ gậy, kịp thời phun hóa chất dập dịch có hiệu quả; tập huấn cho chuyên trách tuyến huyện.

            Hiện nay, Sốt rét có nguy cơ tăng cao và chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện loại trừ Sốt rét ở các huyện đủ điều kiện như: Đông Giang, Tây Giang, Bắc Trà My, Hiệp Đức, Tiên Phước, Quế Sơn; mở rộng điều tra, điều trị ca bệnh và ổ bệnh khi mới được phát hiện; không để Sốt rét xảy ra trên diện rộng; không có trường hợp Sốt rét ác tính và tử vong do Sốt rét.

            Các bệnh không lây nhiễm tiếp tục triển khai với các hoạt động phòng chống cụ thể như: tập huấn bệnh không lây nhiễm cho tuyến huyện; khám Bướu cổ và truyền thông tư vấn cho học sinh 8 - 10 tuổi; khám sàng lọc và truyền thông tư vấn phòng chống bệnh KLN; hỗ trợ cầm tay chỉ việc: chẩn đoán, quản lý, điều trị, tư vấn, thống kê báo cáo tại 6 trạm y tế sau khi khám sàng lọc; giám sát hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến; tổ chức giao ban, sơ kết đánh giá hoạt động/dự án tháng.

            Tiêm chủng vẫn được xem là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh, năm 2024, chúng tôi duy trì các hoạt động tiêm chủng nâng cao sức khỏe nhân dân, đảm bảo công tác an toàn trong tiêm chủng; giữ vững các kết quả đã đạt được tiến tới khống chế, thanh toán và loại trừ một số bệnh đã có vắc xin phòng ngừa; cập nhật và quản lý đối tượng tiêm chủng trên phần mềm hệ thống thông tin tiêm chủng quốc gia; duy trì thành quả thanh toán bại liệt và loại trừ Uốn ván sơ sinh; đảm bảo kỹ thuật dây chuyền lạnh các loại vắc xin từ các tuyến; dự kiến triển khai hoạt động kiểm tra tiền sử tiêm chủng trước khi nhập học để tổ chức tiêm bù.

            Tiếp tục thực hiện giám sát hỗ trợ về công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản; tham gia các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ chuyên trách; thực hiện công tác thống kê báo cáo định kỳ hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản; công tác cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em; xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung tổ chức tập huấn nội dung liên quan đến dinh dưỡng của các Chương trình mục tiêu quốc gia và Y tế dự phòng - Dân số. Tham mưu Sở Y tế để chỉ đạo triển khai một cách thống nhất hoạt động liên quan đến nội dung dinh dưỡng thuộc các chương trình Mục tiêu Quốc gia trên địa bàn toàn tỉnh (Giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi); phối hợp với Trung tâm Y tế các huyện triển khai có hiệu quả các hoạt động theo hướng dẫn của chương trình; tổ chức kiểm tra, giám sát hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho tuyến y tế cơ sở...

            Tiếp tục thực hiện tốt các hoạt động Y tế trường học; vệ sinh môi trường; phòng, chống HIV/AIDS; kiểm dịch Y tế - Quốc tế; sức khỏe môi trường; các hoạt động Vệ sinh lao động; bệnh nghề nghiệp,… Đẩy mạnh truyền thông đa phương tiện trên các phương tiện thông tin đại chúng đến với người dân để giúp bà con chủ động phòng bệnh hiệu quả./.

 

Sự hình thành và phát triển hoạt động Công tác xã hội ở Việt Nam dựa trên cơ sở tình cảm tốt đẹp giữa con người và con người, tình làng nghĩa xóm, truyền thống Á đông,… tương tự như quy luật hình thành và phát triển ngành công tác xã hội trên thế giới nói chung.

   Khởi đầu từ cuối những năm 80, với việc Tổ chức Cứu trợ trẻ em của Thụy Điển tại Việt Nam đề xướng việc phát triển công tác xã hội thông qua các nghiên cứu về nguồn nhân lực trong công tác xã hội, biên soạn tài liệu về công tác xã hội, cấp học bổng trong và ngoài nước cho những người làm việc trong lĩnh vực này và vận động Chính phủ trong việc xây dựng mã đào tạo ngành công tác xã hội; đến nay, ngành Công tác Xã hội ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến nhanh và quan trọng:

  • Ban hành mã ngành: năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo có quyết định 35/2004/GDĐT ngày 11/10/2004 ban hành mã ngành và công nhận ngành công tác xã hội là một ngành đào tạo bậc đại học. Kể từ đó, nhiều trường Cao đẳng, Đại học đã tiến hành đào tạo ngành công tác xã hội; cho đến nay trên cả nước có hơn 38 trường tham gia đào tạo nhân lực cho ngành công tác xã hội.
  • Thành lập các trung tâm Công tác Xã hội: năm 2009, Cục Bảo trợ Xã hội trình Chính phủ đề án phát triển ngành Công tác xã hội ở Việt Nam trong đó có việc ban hành mã nghề cho nghề Công tác xã hội. Việc Unicef cùng các tổ chức như: Cứu trợ Trẻ em, Plan, Child fund và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký hợp tác về hệ thống bảo vệ trẻ em trên các tỉnh thành của Việt Nam trong đó vai trò của cán bộ xã hội là hạt nhân trong hệ thống cũng như thành lập các trung tâm Công tác Xã hội từ cấp tỉnh đến Trung ương.
  • Ban hành mã nghề: ngày 25/8/2010 Bộ Nội Vụ ban hành Thông tư số 08/2010/TT-BNV qui định mã nghề công tác xã hội trong hệ thống ngành nghề tại Việt Nam.

   Dấu mốc quan trọng: ngày 25/3/2010 Phó Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 32/2010/QĐ - TTg phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020 (đề án 32), đánh dấu một mốc mới quan trọng của ngành công tác xã hội tại Việt Nam.

   Sau khi đề án 32 được ban hành, tháng 9/2010 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức hội thảo triển khai đề án này cho tất cả các tỉnh thành trong cả nước, tới năm 2011 Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quyết  định số 2514/QĐ-BYT  ngày 15/7/ 2011 phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế giai đoạn 2011-2020 và tới năm 2015 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 19/8/2015 quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành công tác xã hội.

   Đối với ngành y tế, ngày 26/11/2015 Bộ Y tế có Thông tư số 43/2015/TT-BYT Quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của bệnh viện, ngày 10/5/2016 Bộ Y tế ban hành công văn số 2633/BYT-TCCB hướng dẫn xây dựng đề án thành lập Phòng Công tác xã hội trong bệnh viện. 

   Có thể nói, cùng với quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, chính những nỗ lực lớn lao của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội Vụ và các tổ chức trong nước và quốc tế đã góp phần to lớn trong việc hình thành một nghề mới ở đất nước ta, nghề Công tác xã hội. Trong qúa trình hình thành và phát triển của ngành Công tác xã hội thì việc phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020 của Phó Thủ tướng Chính phủ là một dấu mốc cực kỳ quan trong, Chính vì vậy, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 25/3 hàng năm là ngày Công tác xã hội Việt Nam như một hình thức vinh danh những người tham gia một công việc thầm lặng nhưng vô cùng cần thiết trong xã hội: nghề Công tác xã hội.

TS. BS. Trần Văn Kiệm - 

 

Gần đây thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng nổi lên như một trào lưu, ngoài tác hại khôn lường với sức khỏe chưa được biết đến nhiều, thì các chấn thương nghiêm trọng do thiết bị điện tử mà nó mang lại đã là một thách thức, chỉ riêng báo cáo tại Hoa Kỳ từ năm 2015 đến 2017, ước tính có khoảng 2.035 vụ nổ thuốc lá điện tử và các tổn thương do bỏng tại các khoa cấp cứu của bệnh viện Hoa Kỳ. Các thiết bị trong thuốc lá điện tử có thể hỏng, lỗi và phát nổ gây ra các chấn thương, bỏng nghiêm trọng (miệng, mặt, cổ, mắt mũi, xương hàm, cổ).

thuoc la dien tu

Thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng là gì?

Thuốc lá điện tử (Electronic Nicotine Delivery Systems – ENDS), còn được gọi tên khác như E-cigarette hay Vape, là thiết bị điện tử cầm tay, sử dụng pin để làm nóng dung dịch điện tử có chứa nicotine và các chất hóa học khác, tạo ra các hạt khí dung (còn gọi là aerosol hay sol khí) cho người dùng hít vào. Thuốc lá điện tử hiện chưa được phép lưu hành chính thức tại Việt Nam, tuy nhiên, trên thị trường có rất loại nhiều thuốc lá điện tử với tên gọi, hình dáng và kích thước khác nhau. Dung dịch thuốc lá điện tử là hợp chất chứa nicotine, propylene glycol, glycerin, và chất tạo hương vị (có hơn 15.500 loại hương vị khác nhau, trong đó nhiều loại có chứa chất độc). Một số rất ít thuốc lá điện tử không chứa nicotine. Sol khí (khói thuốc lá điện tử) được tạo ra do quá trình làm nóng dung dịch thuốc lá điện tử, chứa nhiều hóa chất gồm Nicotine; hợp chất của cacbon; hợp chất hữu cơ formaldehyde; các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC); hydrocacbon thơm đa vòng (PAHs); Nitrosamine đặc trưng của thuốc lá (TSNA); Kim loại gồm chì, crom, niken và fomandehit được tìm thấy trong khói của một số sản phẩm thuốc lá điện tử ở mức bằng và cao hơn thuốc lá điếu thông thường; Chất tạo mùi hương: diacetyl and acetyl propionyl...

Thuốc lá nung nóng là thiết bị điện tử sử dụng pin để làm nóng sợi thuốc lá tới nhiệt độ nhất định hoặc kích hoạt thiết bị có chứa sợi thuốc lá, tạo ra sol khí chứa nicotine và các chất phụ gia tạo hương vị cho người dùng hít vào. Nhiệt độ do thuốc lá nung nóng tạo ra (trực tiếp hoặc gián tiếp) có thể lên đến 350ºC, thấp hơn nhiệt độ cháy ở đầu điếu thuốc lá truyền thống (600ºC). Nguyên liệu thuốc lá sử dụng trong thuốc lá nung nóng là thuốc lá, các chất phụ gia không phải thuốc lá và các hương liệu. Thuốc lá có thể ở hình thức điếu hoặc ở các hình thức thiết kế đặc biệt khác như thanh, ngăn chứa thuốc lá băm nhỏ. Khói của thuốc lá nung nóng có chứa nicotine và các hóa chất độc hại khác. Ngoài các chất độc hại giống như trong khói thuốc lá điếu thông thường, khói thuốc lá nung nóng có các hóa chất phụ gia không phải thuốc lá và thường có hương vị. Các hóa chất trong thuốc lá nung nóng có khả năng gây hại cho sức khỏe gồm: kim loại nặng, formaldehyde, nicotin, hydrocarbon thơm đa vòng, cacbon monoxide, accetaldehyde, acrolein.

Tác hại đối với sức khỏe của thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng

Hầu hết thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng chứa thành phần nicotine và rất nhiều hóa chất độc hại đối với sức khỏe con người. Tác hại của nicotine đã được chứng minh rõ ràng. Nicotine là một hợp chất hóa học gây nghiện cao có tác dụng hưng phấn thần kinh. Sử dụng bất kỳ sản phẩm nào có chứa nicotine đều có thể dẫn đến nghiện nicotine và các ảnh hưởng xấu đến sức khỏe khác.

Gây nghiện và ảnh hưởng tới hệ thần kinh: Nicotine trong thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng là chất gây nghiện mạnh và rất độc hại, do đó gây hại như các sản phẩm thuốc lá điếu thông thường. Nicotine làm cho người hút thuốc lá nhanh chóng bị nghiện thuốc lá (lệ thuộc vào nicotine) dù chỉ sau vài lần hút thuốc. Nicotine có thể vào não bộ từ 7 đến 10 giây sau khi hút thuốc lá điện tử, làm tăng lượng dopamine trong não và làm người hút thuốc cảm thấy sảng khoái. Khi đã bị nghiện thuốc lá, nếu thiếu thuốc lá hoặc dừng hút thuốc sẽ có biểu hiện thèm thuốc, cơ thể mệt mỏi, chán nản, hay cáu kỉnh. Để cai nghiện thuốc lá rất khó và mất nhiều thời gian và công sức. Sử dụng nitcotine liều cao có thể làm trầm trọng hơn các triệu chứng trầm cảm và lo âu. Sử dụng nicotine lâu dài làm kìm hãm sự phát triển của não bộ, ảnh hưởng đến khả năng nhớ, tập trung chú ý và học tập, đặc biệt tác động đối với trẻ em, do não bộ của con người phát triển từ khi sinh ra cho đến khi 25 tuổi; thanh thiếu niên sử dụng thuốc lá điện tử dễ dàng bị nghiện nicotine hơn, ảnh hưởng tới sức khỏe cũng xảy ra sớm hơn và trầm trọng hơn.

Bệnh lý đường hô hấp: Bệnh ‘phổi bỏng ngô’ (popcorn lung) hay còn gọi là viêm tiểu phế quản tắc nghẽn, một bệnh hiếm gặp được cho là do diacetyl, một trong các hóa chất tạo mùi hương trong khói thuốc lá điện tử có khả năng đi sâu vào phổi gây ra; các biểu hiện thường gặp là ho, thở khò khè, đau ngực và thở nông; hiện chưa có thuốc điều trị khỏi hoàn toàn bệnh này. Bệnh viêm phổi lipoid, có liên quan đến hút thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng là hậu quả của việc hít các hợp chất dầu có trong dung dịch điện tử. Các axit béo bám dính vào phổi và gây ra phản ứng viêm tại phổi. Các triệu chứng thường gặp là ho mạn tính, thở nông, ho ra máu hoặc đờm có máu. Hiện tại không có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh này; Hội chứng tổn thương phổi cấp do thuốc lá điện tử (E-cigarette Acute Lung Injury Syndrome – EVALI), Vitamin E acetate có trong thuốc lá điện tử được cho là nguyên nhân gây hội chứng này, các triệu chứng thường gặp là khó thở, ho, đau ngực, sốt, ớn lạnh, tiêu chảy, buồn nôn và nôn, thở nhanh và nông; Suy giảm chức năng phổi: Kim loại được giải phóng từ khói thuốc lá điện tử, tùy mức độ tiếp xúc, có khả năng gây ra khó thở, kích ứng phế quản và phổi, kích ứng màng nhầy ở mắt và đường hô hấp trên.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: Sử dụng thuốc lá điện tử lâu dài có thể gây bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Triệu chứng thường gặp của bệnh là ho, khó thở kéo dài vì đường thở bị hẹp lại so với bình thường. Phổi tắc nghẽn mạn tính có thể gây ra tình trạng suy giảm hô hấp, hạn chế khả năng hoạt động hàng ngày, làm giảm chất lượng cuộc sống.

Bệnh lý tim mạch: Nicotine làm tăng nguy cơ rối loạn tim mạch. Sử dụng
nicotine lâu dài có thể gây suy tim hoặc tử vong. Một số hóa chất độc hại như carbon monoxide trong khói thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối và xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ

Ung thư: Một số hợp chất có trong khói thuốc lá điện tử như: formaldehyd, acrolein, toluene, chất đặc biệt gây ung thư nitrosamine và hydrocarbon thơm đa vòng, các kim loại nặng (như niken và chì) có thể gây các thay đổi tế bào liên quan đến ung thư tương tự như người hút thuốc lá điếu thông thường17,18. Ngoài việc gây nghiện cao, nicotine làm tăng nguy cơ gây ung thư thông qua tăng sinh tế bào, mất cân bằng oxy hóa, gây chết tế bào và đột biến DNA, cũng như sự phát triển của khối u.

Tác hại từ hút thụ động: Khói từ thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng gây hại cho sức khỏe của những người xung quanh, nicotine từ thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng phơi nhiễm ở những người tiếp xúc với khói. Các triệu chứng thường gặp ở người tiếp xúc thụ động với thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng gồm khó thở, kích ứng mắt, nhức đầu, buồn nôn và đau họng hoặc kích thích họng; Hít phải các chất độc hại như nitrosamines, aldehydes, carbon monoxide... trong khói của thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng cũng có nguy cơ mắc ung thư và tăng nguy cơ tim mạch, đột quỵ. Trẻ em là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất bởi khói thuốc lá điện tử và khói thuốc lá nung nóng. Bằng chứng cho thấy chỉ một lượng nhỏ khói thuốc lá điện tử và thuốc là nung nóng cũng tác động tới sự phát triển của não bộ và phổi của trẻ em. Phụ nữ có thai đặc biệt dễ bị tác động bởi nicotine trong khói thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Các nguy cơ có thể gồm: sinh thiếu tháng, trẻ sinh ra thiếu cân, thai lưu, dị dạng phát triển não và phổi, hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh.

Sau thời gian dài đương đầu với dịch bệnh COVID-19, năm 2022, tình hình dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, các hoạt động xã hội chuyển sang trạng thái bình thường mới. Được sự quan tâm chỉ đạo của Sở Y tế tỉnh Quảng Nam, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Duy Xuyên, các chuyên khoa đầu ngành tuyến tỉnh và sự phối hợp, hỗ trợ các ban, ngành, đoàn thể của huyện, chính quyền địa phương các xã, thị trấn, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể viên chức, người lao động trong đơn vị Trung tâm Y tế (TTYT) huyện Duy Xuyên từng bước ổn định và phát triển, các hoạt động của đơn vị thu được nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là công tác khám, chữa bệnh đạt nhiều kết quả đáng khích lệ.

Duy xuyen8

Hình ảnh 1 trường hợp phẫu thuật tại TTYT Duy Xuyên (Ảnh VN)

 Công tác cải tiến chất lượng bệnh viện: Năm 2022 TTYT huyện Duy Xuyên được Sở Y tế đánh giá, xếp loại chất lượng “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Bệnh viện đạt loại Khá, đạt mức 3.08 trong Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện Phiên bản 2.0 (ban hành kèm theo Quyết định số 6858/QĐ-BYT ngày 18/11/2016 của Bộ Y tế), tăng 0,19 so với năm 2021 và 0,24 so với năm 2020. Tỷ lệ khảo sát hài lòng chung là: 93,36 %; hài lòng người bệnh ngoại trú 88,09 %; mức độ an toàn phẫu thuật: đạt 92,5/110 điểm loại tốt. Tại các trạm y tế đã đảm bảo nhân lực theo cơ cấu để các Trạm y tế xã, thị trấn hoạt động một cách có hiệu quả. Làm tốt các chương trình Y tế Quốc gia, trong năm chưa có sai sót lớn xảy ra, tuyến y tế cơ sở góp phần lớn vào công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân.

Phát triển các dịch vụ kỹ thuật: Danh mục kỹ thuật triển khai tại đơn vị còn hạn chế do biến động thiếu hụt nhiều về nhân lực, nhất là bác sỹ. Vừa qua đơn vị đang đề nghị Sở Y tế tỉnh Quảng Nam phê duyệt gần 3.500 danh mục kỹ thuật mới, hy vọng sang ngay từ đầu năm 2023 sẽ triển khai đa dạng các danh mục kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong và ngoài huyện.

Công tác khám, chữa bệnh BHYT: Tại đơn vị chủ yếu khám, chữa bệnh cho bệnh nhân có thẻ BHYT 96%. Việc thực hiện hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh thanh toán BHYT có sự hướng dẫn và chỉ đạo của Sở Y tế và BHXH Quảng Nam.

Công tác khám chữa bệnh YHCT - Phục hồi chức năng năm 2022: Tổng số bệnh Ngoại trú: 17.338 lượt, tổng số bệnh nội trú: 1.004 lượt.

Công tác Y tế dự phòng: Công tác phòng chống dịch, cơ bản khống chế được các dịch, bệnh trên địa bàn, triển khai và hoàn thành các chương trình quản lý như Y tế trường học, VSATTP, vệ sinh lao động,… Tổng số ca mắc Sốt xuất huyết trong năm là 1.881 ca. Số ca mắc bệnh sốt xuất huyết tăng cao từ đầu tháng 6, tăng rất cao so với cùng kỳ năm 2021 (38 ca mắc). Hơn 40 ổ dịch Sốt xuất huyết xuất hiện ở tất cả các xã, tập trung nhiều như Duy Trinh, Duy Sơn,… hiện đang xử lý và tình hình số ca mắc Sốt xuất huyết có dấu hiệu giảm dần.

Chương trình Tiêm chủng mở rộng: Chú trọng công tác TCMR, triển khai đúng lịch, đúng vắc xin và đúng đối tượng, chưa có sự cố xảy ra trong quá trình TCMR. Tiêm chủng đầy đủ: 1921/2110 đạt tỷ lệ 91%.

Công tác Dân số và Truyền thông giáo dục sức khỏe: Năm 2022 phòng Dân số tích cực tham mưu cho UBND huyện, Trung tâm Y tế hỗ trợ một phần kinh phí và tạm giao chỉ tiêu kế hoạch chuyên môn cho 14 xã, thị trấn, nhằm tạo điều kiện cho các địa phương tổ chức các Chiến dịch truyền thông lồng ghép các gói dịch vụ chăm sóc SKSS chất lượng cao và KHHGĐ, xây dựng các mô hình không sinh con thứ 3+, duy trì các hoạt động của các xã ven biển và các hoạt động nâng cao chất lượng dân số. Công tác truyền thông giáo dục sức khỏe được triển khai thực hiện thường xuyên, phối hợp với Đài Truyền thanh- Truyền hình huyện và 14 Trạm truyền thanh xã, thị trấn với các nội dung chăm sóc dịch bệnh, phòng chống bệnh sốt xuất huyết, tay chân miệng, phòng bệnh không lây nhiễm như tăng huyết áp, đái tháo đường và nhất là đại dịch Covid-19 có hiệu quả cao.

Công tác điều dưỡng:Cùng với hệ điều trị trong công tác chăm sóc sức khỏe, hệ điều dưỡng là một hệ thống chiếm đến 2/3 khối lượng công việc trong bệnh viện. Ngoài việc chăm sóc thể chất, tinh thần, tư vấn, hướng dẫn người bệnh, đội ngũ điều dưỡng Trung tâm Y tế Duy Xuyên đã không ngừng nâng cao tinh thần thái độ phục vụ, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh. Tổ chức các buổi họp Hội đồng Người bệnh cấp khoa 01 lần/tuần, cấp bệnh viện 01 tháng/lần. Kết hợp với Tổ kiểm soát nhiễm khuẩn trong việc đánh giá công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại đơn vị.

Ngoài ra, Công tác kiểm soát nhiễm khuẩn; Công tác chỉ đạo tuyến và thực hiện Đề án 1816; Công tác Dược; Công tác tài chính, hành chính đơn vị cũng được tổ chức tốt; hoạt động tuyến Y tế Cơ sở, các Trạm Y tế làm tốt các chương trình Y tế Quốc gia, đảm bảo phần lớn về công tác Y tế cơ sở. Phần lớn nhân lực được đảm bảo theo vị trí việc làm. Chưa có sự cố lớn về chuyên môn xảy ra, hạn chế được sai sót, dần tạo điều kiện cho bệnh nhân vùng xa được hưởng lợi các dịch vụ y tế.

Kết quả ngày hôm nay, thật sự là một bước chuyển mình của trung tâm y tế huyện Duy xuyên. Có được kết quả này, một phần nhờ sự đóng của Bác sĩ chuyên khoa II Trần Đỗ Nhân.
Tháng 4 năm 2022, bác sĩ chuyên khoa II Trần Đỗ Nhân được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Duy Xuyên. Đây là một nhiệm vụ nặng nề của một người đứng đầu một đơn vị y tế tuyến huyện, chăm lo sức khỏe nhân dân cho hơn 100 ngàn dân huyện Duy Xuyên. Nhận nhiệm vụ bác sỹ Trần Đỗ Nhân bắt tay ngay vào việc nâng cao công tác tổ chức, triển khai thực hiện công tác chuyên môn.

Xuất thân chuyên khoa ngoại, đây là một lợi thế trong công tác, khi nhận nhiệm vụ mới bác sỹ Nhân luôn nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi. Khi đã là giám đốc TTYT, ông vừa đảm trách công việc của một phẫu thuật viên như chuyên môn vốn có, ông vừa phải tìm tòi học hỏi cách lãnh đạo ở một TTYT tuyến huyện. Vẫn duy trì việc công việc chuyên môn theo sở trường: chẩn đoán chính xác, điều trị kịp thời, không gây bất kì phiền hà cho bệnh nhân, hết lòng tận tình cứu chữa cho người bệnh. Trong công tác lãnh đạo, ông luôn lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp và đặc biệt quan tâm đào tạo nguồn nhân lực kế cận,… với ông công khai, minh bạch, dân chủ là phương châm trong công tác lãnh đạo.

Từ những nỗ lực của bác sỹ Nhân, từ những tháng đầu năm 2022, số lượt khám bệnh tại Trung tâm Y tế huyện Duy Xuyên tăng mạnh, điều trị nội trú khoảng 400-450 người bệnh/ngày, có ngày tăng lên đến trên 500 người/ ngày, tổng số bệnh nhân điều trị nội trú 12.201 người, đạt tỉ lệ 152.93%, thời điểm đông bệnh phải kê thêm giường ngoài kế hoạch. Công tác khám bệnh ngoại trú cũng tăng lên 450 đến 500 bệnh nhân/ngày, có ngày trên 600 lượt. Đã triển khai được nhiều kỹ thuật mới về hệ Ngoại- Sản và các Cận lâm sàng như mổ bằng phương pháp nội soi nhiều ca khó, phức tạp lâu nay chưa được thực hiện; nhiều dịch vụ mới như Phục hồi chức năng, triển khai Nội soi đường tiêu hóa bằng phương pháp gây tê, gây mê, Siêu âm tim, đo Điện não đồ… hỗ trợ tốt cho công tác điều trị.

Hiện nay, Trung tâm Y tế huyện Duy Xuyên đang đón nhận được nhiều sự tin tưởng của người dân huyện nhà và các địa phương khác. Bước chuyển mình này là sự quyết tâm đồng lòng của cấp ủy, chính quyền, tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên,… và đặc biệt là sự đồng lòng, cố gắng trao dồi nâng cao tay nghề, thái độ phục vụ của của toàn thể cán bộ, viên chức, người lao động TTYT Duy xuyên, trong đó có sự đóng góp của bác sĩ chuyên khoa II Trần Đỗ Nhân.

Để ngày càng nâng cao về quy mô cũng như chất lượng trong công tác, trong thời gian tới BS Trần Đỗ Nhân cùng tập thể lãnh đạo và toàn đơn vị có kế hoạch xin đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại hơn như máy CT-Scan, các thiết bị hỗ trợ cận lâm sàng khác nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người dân Duy Xuyên nói riêng và nhân dân các vùng lân cận.

Châu Long - Cẩm Vân

SKĐS - Nếu như các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe ở nước ngoài thuần vitamin, khoáng chất hoặc chỉ dược liệu thì các sản phẩm này của Việt Nam có sự phối kết hợp của vitamin, chất khoáng, hoạt chất sinh học, thảo dược. Tỷ lệ tiếp cận của người dân Việt Nam với các thực phẩm bảo vệ sức khỏe lên tới 80%.

tpccnn 1666874193657223219944

Nghiên cứu các thành phần trong sản phẩm thực phẩm chức năng tại Viện thực phẩm chức năng


Thông tin tại lễ ra mắt giai đoạn 1 của Viện Thực phẩm chức năng (VIDS), dược sĩ Nguyễn Xuân Hoàng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam cho biết, thế mạnh lớn nhất của Việt Nam là dược liệu, hoạt chất sinh học có trong thực phẩm bảo vệ sức khỏe.

"Nếu như các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe ở nước ngoài thuần vitamin, khoáng chất hoặc chỉ dược liệu thì các sản phẩm này của Việt Nam có sự phối kết hợp của vitamin, chất khoáng, hoạt chất sinh học, thảo dược"- Dược sĩ Nguyễn Xuân Hoàng nói.
Kể từ khi có Hiệp hội Thực phẩm chức năng, tỷ lệ tiếp cận của người dân Việt Nam với các thực phẩm bảo vệ sức khỏe lên tới 80%. Nếu như công nghiệp dược hiện nay nhập khẩu tới 99%, Việt Nam chỉ gia công đóng gói thì thực phẩm bảo vệ sức khỏe hiện chỉ nhập khẩu 40%, điều đó cho thấy chúng ta đã chủ động về nguyên liệu.

Hiện cả nước có hàng trăm doanh nghiệp sản xuất thực phẩm chức năng cung cấp ra thị trường khoảng 12.000 sản phẩm. Tuy vậy, người dân vẫn còn mơ hồ đối với các sản phẩm thực phẩm chức năng là do các sản phẩm thật - giả tràn lan trên thị trường, một số cá nhân thổi phồng lợi ích sản phẩm, lừa dối người tiêu dùng...

Để dẹp loạn tình trạng các sản phẩm nhái nhãn mác, nhái công nghệ sản xuất các sản phẩm có uy tín, hiện Bộ Y tế đang lấy ý kiến dự thảo quy chuẩn đối với giới hạn các chất ô nhiễm có trong thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Tới đây, Bộ Y tế có thể đặt ra quy định tiêu chuẩn về chất ô nhiễm, lấy mẫu kiểm nghiệm, phương pháp thử, đăng ký công bố sản phẩm... với sản phẩm bảo vệ sức khoẻ sẽ tương tự như sản phẩm thuốc.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang cho biết, trong chiến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2030, một trong những định hướng phát triển, ứng dụng công nghệ là việc nghiên cứu phát triển nguồn thảo dược, sản xuất các loại thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Viện Thực phẩm chức năng ra mắt là minh chứng cho quá trình nỗ lực vươn mình phát triển, để có thể trở thành 1 trong 5 viện khoa học hàng đầu ASEAN về nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các sản phẩm thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ thiên nhiên và đặc biệt là nguyên liệu có nguồn gốc công nghệ sinh học.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang hy vọng Viện Thực phẩm chức năng sẽ là một trong những cơ sở hàng đầu trong cả nước triển khai nghiên cứu, phát triển công nghệ sản xuất thực phẩm chức năng, các nguyên liệu có nguồn gốc thiên nhiên và các hoạt chất công nghệ sinh học; chuyển giao công nghệ cho các đơn vị và doanh nghiệp trong và ngoài nước, kết nối các nhà khoa học, các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Viện Thực phẩm chức năng hoạt động đa lĩnh vực, gồm có: Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ; Dịch vụ khoa học công nghệ; Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm là kết quả của quá trình nghiên cứu.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, thời điểm giữa năm 2022, số ca COVID-19 trên toàn cầu tăng 30%. Nguyên nhân là do 2 dòng biến thể phụ BA.4, BA.5 gây ra làn sóng bùng phát mới.

Việt Nam Kể từ đầu dịch đến nay đã vượt qua con số 10 triệu ca nhiễm, (bình quân cứ 1 triệu người có hơn 100.000 ca nhiễm).

Theo Bộ Y tế, tình hình dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia châu Âu liên quan đến biến thể phụ BA.4, BA.5 của biển chúng Omicron. Tại Việt Nam, dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát trên toàn quốc, tuy nhiên đã ghi nhận sự xuất hiện của cả hai biến thể phụ BA.4 và BA.5 của biến chủng Omicron trong cộng đồng.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), biến thể phụ BA.4, BA.5 lây lan nhanh hơn biến thể BA.1, BA.2 từ 10-13%. Hai biến thể này có thể thoát miễn dịch, nghĩa là những người đã mắc BA.1, BA.2 vẫn có thể mắc lại BA.4, BA.5.

Vậy làm thế nào để phòng dịch bệnh COVID-19 hiện nay?

TS 10 tiêm M4

TS.BS Mai Văn Mười - Giám đốc Sở Y tế tiêm mũi 4 vắc xin phòng COVID-19

Bộ Y tế nhấn mạnh, vaccine vẫn là biện pháp quan trọng trong phòng, chống dịch. Đến tháng 2/2022, Việt Nam gần như đã bao phủ được hết các mũi tiêm vaccine phòng COVID-19 cơ bản cho người 12 tuổi trở lên.

Đến nay, sau 4 đến 6 tháng, miễn dịch đối với người tiêm đã giảm. Đặc biệt, những người suy giảm miễn dịch, người lớn tuổi còn giảm nhiều hơn.

Do đó, cần tiêm vaccine COVID-19 mũi 3 cho người từ 12 tuổi trở lên, tiêm mũi 4 cho các đối tượng theo hướng dẫn của Bộ Y tế và tiêm liều cơ bản cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi để duy trì miễn dịch cộng đồng.

Vì sao cần phải tiêm vắc xin COVID-19 mũi 3, mũi 4?

Theo các chuyên gia y tế, mặc dù số mắc và tử vong do COVID-19 trên toàn cầu có xu hướng giảm, tuy nhiên, ở một số khu vực dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp, xuất hiện các biến chủng mới. Hiện nay nhiều quốc gia đã dỡ bỏ một phần hoặc hoàn toàn các biện pháp phòng chống dịch nên nguy cơ dịch quay trở lại là rất lớn.

Tại Việt Nam, hiện nay đã kiểm soát tốt sự lây lan dịch bệnh COVID-19, cuộc sống người dân trở lại bình thường nên nhiều người xuất hiện tâm lý chủ quan, lơ là trong áp dụng các biện pháp phòng chống dịch, bệnh, kể cả việc tiêm vắc xin nên cũng đang tiềm ẩn nguy cơ dịch quay trở lại.

Theo kết quả của một số nghiên cứu gần đây, những người đã tiêm vaccine liều cơ bản và bị mắc COVID-19, miễn dịch bắt đầu giảm ở tuần 10-19 sau tiêm. Nếu những người này được tiêm nhắc vaccine phòng COVID-19 thì sẽ khôi phục khả năng miễn dịch, duy trì hiệu lực bảo vệ trước nguy cơ nhiễm vi rút SARS-COV-2.

Kết quả nghiên cứu tại Pháp cho thấy nếu được tiêm liều nhắc, những người này được bảo vệ khỏi tái nhiễm virus lên đến 81%. Kết quả nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho thấy, những người từng mắc COVID-19 nếu chỉ tiêm 2 liều thì hiệu quả phòng nhập viện do tái nhiễm là 34,6%, nhưng nếu được tiêm liều nhắc thì hiệu quả này lên đến 67,6%. WHO khuyến cáo sau 4-6 tháng cần tiêm liều tăng cường trong đó ưu tiên cho những đối tượng nguy cơ cao. WHO nhấn mạnh. "Chúng ta không thể coi COVID-19 là bệnh nhẹ vì ngay cả tiêm vaccine rồi vẫn mắc bệnh. Trong khi đó các quốc gia vẫn đang lưu hành các biến thể mới. Trên toàn cầu các biến thể mới ngày càng gia tăng làm tăng số mắc trên toàn cầu".

Vì vậy, việc cần thiết phải tiêm vắc xin để phòng chống dịch bệnh  COVID-19 trong giai đoạn này là rất quan trọng. Người dân cần thực hiện tiêm liều tăng cường để bảo vệ bản thân, gia đình và cộng đồng trước các biến chủng mới của vi rút SARS-COV-2.

Tại Quảng Nam, hiện nay ngành Y tế đang triển khai tiêm mũi nhắc, tiêm liều cơ bản cho trẻ từ 5-11 tuổi. Để tiêm vắc xin phòng COVID-19, mọi người dân đến điểm tiêm của các cơ sở y tế được tổ chức vào các ngày trong tuần để được tiêm.

TT-GDSK (tổng hợp)

 

Bảo đảm an toàn thực phẩm được coi là một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tháng Hành động vì An toàn thực phẩm năm 2022 diễn ra từ ngày 15/04 đến 15/05 với chủ đề “Tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nông sản thực phẩm trong tình hình mới”, nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống và nâng cao nhận thức, kiến thức của người tiêu dùng trong công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP), phòng ngừa ngộ độc thực phẩm với những điểm mới:

An toàn thực phẩm trong bối cảnh đại dịch COVID-19 được kiểm soát

hinh kt ATTP

Dịch COVID-19 được kiểm soát, nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng cao sau một thời gian dài bị hạn chế. Đây là cơ hội cho những nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm, tuy nhiên đây cũng là thách thức về công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là thời điểm vào hè, điều kiện khí hậu, nhu cầu tiêu thụ thực phẩm của người dân thay đổi.

Hưởng ứng Tháng Hành động vì An toàn thực phẩm năm 2022, GS.TS Nguyễn Thanh Long- Bộ trưởng Bộ Y tế, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo liên ngành TW về An toàn thực phẩm đã ký, ban hành kế hoạch Triển khai "Tháng hành động vì an toàn thực phẩm" năm 2022 diễn ra từ ngày 15/4-15/5. Theo kế hoạch này, công tác bảo đảm an toàn thực phẩm nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến các địa phương, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, đạt được những thành tích quan trọng trên các lĩnh vực. Công tác quản lý an toàn thực phẩm đã thực hiện chuyển đổi mạnh sang quản lý rủi ro, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các địa phương đã tích cực thúc đẩy các vùng chuyên canh, sản xuất thực phẩm an toàn gắn với xây dựng bản đồ sản xuất nông sản thực phẩm an toàn và đăng ký chỉ dẫn địa lý sản phẩm. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn còn không ít bất cập, nhất là xuất phát từ việc còn tồn tại số lượng rất lớn các hộ sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ. Việc sản xuất nông sản thực phẩm còn manh mún nhỏ lẻ, chưa nhiều sản phẩm được áp dụng công nghệ cao trong sản xuất.  Do vậy, trong thời gian tới ngành nông nghiệp cần tiếp tục triển khai xây dựng và phát triển mô hình chuỗi về sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, kiểm soát an toàn thực phẩm ngay từ các yếu tố đầu vào và liên kết sản xuất với tiêu thụ, phát triển chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn trên toàn quốc, đảm bảo nguồn cung thực phẩm chất lượng, an toàn cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, tình hình dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, Việt Nam cần nâng cao cảnh giác trong phòng chống dịch, đồng thời phải đảm bảo phát triển sản xuất, kinh doanh. Kế hoạch hướng đến mục tiêu tăng cường công tác thông tin, truyền thông chính xác, kịp thời, toàn diện, có trách nhiệm, trung thực các vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm; tăng cường truyền thông quảng bá sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản đảm bảo chất lượng, an toàn.  Đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản; kiểm tra, giám sát về an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, quảng cáo thực phẩm; Nêu cao vai trò của chính quyền các cấp, các cơ quan quản lý, tổ chức xã hội và sự giám sát của người tiêu dùng đối với việc tuân thủ pháp luật về an toàn thực phẩm đối với các cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Giải quyết kịp thời các sự cố mất an toàn thực phẩm củng cố niềm tin của người dân, giúp phát triển thị trường trong nước, xuất khẩu. Ngoài các hoạt động thường xuyên về công tác bảo đảm an toàn thực phẩm "Tháng hành động vì an toàn thực phẩm" năm 2022 còn là điểm nhấn trong năm, tạo nên đợt cao điểm, phát động một chiến dịch truyền thông tuân thủ các quy định pháp luật về an toàn thực phẩm trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm; giảm thiểu các hành vi vi phạm trong sản xuất kinh doanh thực phẩm; Chủ động phòng ngừa ô nhiễm thực phẩm, hạn chế tối đa ngộ độc thực phẩm, đặc biệt là các vụ ngộ độc thực phẩm nhiều người mắc do sử dụng sản phẩm thực phẩm không bảo đảm an toàn. Gắn trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp để tập trung sự chỉ đạo và bố trí nguồn lực cho công tác an toàn thực phẩm; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa chính quyền ở địa phương, giữa các cơ quan chức năng và các đoàn thể chính trị xã hội trong công tác bảo đảm an toàn thực phẩm; phát huy ý thức trách nhiệm với cộng đồng của cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng đối với công tác bảo đảm an toàn thực phẩm.

Những thông điệp đáng chú ý

Với mục tiêu thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn, thích ứng dịch COVID-19 trong tình hình mới. Hưởng ứng tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2022.

Người sản xuất kinh doanh nuôi trồng cần:

+ Tăng cường phát triển các vùng chuyên canh sản xuất an toàn thực phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế và khu vực

+Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm

+Tuyệt đối không sản xuất, kinh doanh thực phẩm giả, không an toàn.

+Không sử dụng hóa chất, kháng sinh, chất cấm sai quy định trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản

Người tiêu dùng:

+ Lựa chọn, bảo quản, chế biến thực phẩm an toàn

+Không sử dụng thực phẩm đã ôi, thiu, hỏng, mốc

Lãnh đạo chính quyền các cấp, người đứng đầu các đơn vị:

+ Chủ động, tích cực, trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, xử lý các trường hợp vi phạm trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn.

+ Tăng cường tuyên truyền, quảng bá sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ nông sản, thực phẩm an toàn

Vì sự phát triển kinh tế - xã hội, vì sức khỏe cộng đồng hãy:

“Tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nông sản thực phẩm trong tình hình mới”.

Tài liệu tham khảo: suckhoedoisong.vn

Long Cảnh

 

TS.BS Mai Văn Mười – TUV, Giám đốc Sở Y tế

Dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp trên thế giới, theo trang thống kê worldometer.info, tính đến 6h ngày 27/4 (theo giờ Việt Nam), toàn thế giới đã ghi nhận tổng cộng 510.587.373 ca COVID-19, trong đó có 6.248.113 ca tử vong. Số ca nhiễm mới trong 24 giờ qua là 586.990 và 2.536 ca tử vong mới. Số bệnh nhân bình phục đã đạt 463.955.742 người, 41.412.967 bệnh nhân đang được điều trị tích cực và 42.693 ca nguy kịch. Trong 24 giờ qua, Đức dẫn đầu thế giới về ca nhiễm mới với 135.699 ca; Pháp đứng thứ hai với 97.498 ca; tiếp theo là Hàn Quốc (80.301 ca). Anh đứng đầu về số ca tử vong mới, với 451 người trong ngày; tiếp theo là Đức 307 ca và Nga với 176 ca. Mỹ vẫn là quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất thế giới. Tổng số ca nhiễm tại Mỹ đến nay là 82.757.704 người, trong đó có 1.018.730 ca tử vong. Ấn Độ đứng thứ hai thế giới, ghi nhận tổng cộng 43.065.666 ca nhiễm, bao gồm 522.374 ca tử vong. Brazil xếp thứ ba với 30.378.061 ca bệnh và 662.866 ca tử vong.

Tiem Vac Xin Ngua Co 01

Tuy dịch COVID-19 thế giới vẫn còn nhiều biến động, Việt nam ta đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh và trở về trạng thái bình thường mới. Theo thống kê mới nhất của Bộ Y tế cho biết, đến 6 h ngày 27/4, trên Hệ thống Quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 8.431 ca nhiễm mới tại 56 tỉnh, thành phố (có 6.341 ca trong cộng đồng). Trung bình số ca nhiễm mới trong nước ghi nhận trong 07 ngày qua: 10.212 ca/ngày. Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 10.620.203 ca nhiễm, đứng thứ 12/227 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam chỉ đứng thứ 104/227quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 107.357 ca nhiễm). Đợt dịch thứ 4 (từ ngày 27/4/2021 đến nay): Số ca nhiễm ghi nhận trong nước là 10.612.454 ca. Các địa phương ghi nhận số nhiễm tích lũy cao trong đợt dịch này: Hà Nội (1.582.620), TP. Hồ Chí Minh (608.112), Nghệ An (480.366), Bắc Giang (384.856), Bình Dương (383.281). Đến nay tổng số người mắc COVID-19 tại Việt Nam đã khỏi là 9.116.225 ca. Số ca tử vong giảm, trung bình số tử vong ghi nhận trong 07 ngày qua (kể từ ngày 19/4) là 8 ca. Tổng số ca tử vong do COVID-19 tại Việt Nam tính đến nay là 43.029 ca, chiếm tỷ lệ 0,4% so với tổng số ca nhiễm. Tổng số ca tử vong xếp thứ 24/227 vùng lãnh thổ, số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 130/227 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. So với châu Á, tổng số ca tử vong xếp thứ 6/49 (xếp thứ 3 ASEAN), tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 25/49 quốc gia, vùng lãnh thổ châu Á (xếp thứ 4 ASEAN).

Quảng Nam, cho đến nay (27/4/2022) toàn tỉnh có 49.149 ca mắc COVID-19, tuy nhiên số ca mắc giảm mạnh trong thời gian gần đây, mỗi ngày chỉ từ hàng chục ca (từ 16h00 ngày 26/4/2022 đến 16h00 ngày 27/4/2022, Quảng Nam ghi nhận 29 ca mắc mới (giảm 06 ca so với hôm qua), trong đó: 28 ca cộng đồng và 01 ca đã được giám sát, cách ly từ trước). Bên cạnh đó số bệnh nhân được công bố khỏi bệnh tăng đáng kể (155 ca khỏi bệnh trong ngày 27/4).

Như vậy, dịch COVID-19 tại Quảng Nam cơ bản được kiểm soát, đưa tất cả các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội,… trên địa bàn toàn tỉnh về trạng thái bình thường mới.

Trên cơ sở đó, Sở Y tế Quảng Nam - Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 cấp tỉnh tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm trong phòng, chống dịch COVID-19 thời gian tới, đặc biệt là quyết liệt chỉ đạo phân bổ, và tiêm chủng vắc xin theo địa bàn trọng điểm là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp,... ưu tiên tiêm cho các đối tượng người già, người có nguy cơ cao, mở rộng chỉ định tiêm cho một số đối tượng như phụ nữ mang thai trên 13 tuần, trẻ em, mở rộng mạng lưới tiêm chủng bao gồm cố định và lưu động. Đẩy mạnh chiến dịch tiêm chủng có quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Quảng Nam.

Kết quả cho đến nay, Quảng Nam có 1.103.795 người trên 18 tuổi có nhu cầu tiêm vắc xin phòng Covid-19; số người được tiêm ít nhất 1 mũi: 1.103.795 người tiêm, đạt tỷ lệ 100% số người cần tiêm; Số người đã tiêm đủ liều cơ bản: 1.077.143 người tiêm, đạt tỷ lệ: 98,3% số người cần tiêm; Số người đã tiêm mũi nhắc lại, bổ sung: 795.700 người, đạt tỷ lệ: 72,6%.

Về tiêm cho trẻ em từ 12-17 tuổi, Quảng Nam có 133.495 trẻ có độ tuổi từ 12 đến 17 tuổi có nhu cầu tiêm vắc xin phòng COVID-19. Kết quả số trẻ được tiêm ít nhất 1 mũi: 132.608 mũi, đạt tỷ lệ 99,3%; số trẻ được tiêm đủ liều cơ bản: 130.377 mũi, đạt tỷ lệ 97,7%.

Thời gian tới, công tác tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 tại Quảng Nam cần đẩy mạnh với những nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

- Thực hiện tốt Công văn số 2007/BYT-DP ngày 20/4/2022 của Bộ Y tế, đẩy mạnh hơn nữa việc tiêm vắc xin; đảm bảo hoàn thành tiêm mũi 3 cho người từ 18 tuổi trở lên (hoàn thành trong tháng 4/2022).

- Triển khai thực hiện Công văn số 1815/BYT-CNTT ngày 08/4/2022 của Bộ Y tế, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện bảo quản, địa điểm, nhân lực để tiêm cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi ngay sau khi được phân bổ vắc xin; triển khai tiêm chủng đảm bảo an toàn, khoa học với phương châm “tiêm đến đâu, an toàn đến đó”.

- Toàn ngành Y tế nâng cao trách nhiệm, thực hiện đầy đủ quy trình tiêm chủng theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế. Bố trí các điểm tiêm chủng tập trung, lưu động một cách khoa học, hợp lý, linh hoạt để mọi đối tượng được tiêm chủng miễn phí, kịp thời, đúng quy định với phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người” và tiêm chủng “vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước”.

- Các bệnh viện tích cực tham gia phối hợp xử trí kịp thời các trường hợp phản ứng sau tiêm chủng, các cơ sở tiêm chủng tăng cường quản lý tốt đối tượng, đảm bảo người dân được tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch trình, an toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả phòng chống dịch bệnh.

- Chủ trì, phối hợp với Công an, các Sở, ngành liên quan tổ chức triển khai cấp “Hộ chiếu vắc xin”; thực hiện “làm sạch” dữ liệu tiêm chủng COVID19, khẩn trương cập nhật đối tượng tiêm chủng các mũi tiêm còn thiếu lên phần mềm https://tiemchungcovid19.moh.gov.vn phục vụ kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thời gian hoàn thành trước ngày 05/5/2022 theo yêu cầu tại Công văn số 1975/BYT-CNTT ngày 19/4/2022 của Bộ Y tế.

- Trung tâm Kiểm soát bệnh tật cần rà soát, xử lý dứt điểm các phản ánh của người dân về thông tin tiêm chủng COVID-19 trên Cổng thông tin tiêm chủng COVID-19 và duy trì việc xử lý phản ánh theo quy trình của Bộ Y tế tại Công văn số 9458/BYT-CNTT ngày 08/11/2021; bổ sung thông tin sai lệch, còn thiếu của đối tượng tiêm chủng phòng COVID-19 trên “Nền tảng tiêm chủng” và thực hiện ký số chứng nhận tiêm chủng vắc xin trên “Nền tảng Quản lý tiêm chủng COVID-19” theo Công văn số 1908/BYT-CNTT ngày 15/4/2022 của Bộ Y tế. Thời gian hoàn thành trước ngày 30/4/2022.

- Phòng Nghiệp vụ Y theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện và tổng hợp kết quả báo cáo Bộ Y tế, UBND tỉnh theo quy định.

Ts.Bs Mai Văn Mười - TUV, Giám đốc Sở Y tế tỉnh Quảng Nam

Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và là mối quan tâm của toàn xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế là đơn vị đi đầu, đóng vai trò là nòng cốt. Xác định được vai trò, nhiệm vụ quan trọng, thời gian qua, ngành y tế Quảng Nam đã nỗ lực hết mình trong điều kiện có thể, tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp chuyên môn phù hợp. Thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực y tế.

Ts. Bs Mai Van Muoi bao cao cong tac nganh y te

Báo cáo UBND tỉnh về công tác y tế trong Hội nghị tình hìnhKinh tế - Xã hội 6 tháng đầu năm 2021 tỉnh Quảng Nam (ảnh TT)

Kết quả đạt được

Công tác phòng, chống dịch COVID-19: Năm 2021, một năm đương đầu với đại dịch, cùng với cả nước, ngành y tế tỉnh Quảng Nam đang từng bước nỗ lực khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công, bảo đảm chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân. Trong năm qua, các đợt dịch COVID-19 được phát hiện tại Quảng Nam đều cơ bản được khống chế thành công. Ngành Y tế cũng đã kịp thời tăng cường năng lực xét nghiệm SARS-CoV2 để truy vết thần tốc, tầm soát diện rộng. Hiện nay, toàn tỉnh có 5 cơ sở xét nghiệm bằng phương pháp PCR, tất cả các cơ sở khám chữa bệnh đã thực hiện test nhanh kháng nguyên SARS-CoV2. Tăng cường kiểm tra công tác phòng chống dịch các cấp, tăng cường năng lực các Tiểu ban giúp việc cho Ban chỉ đạo phòng chống dịch cấp tỉnh. Tăng cường kiểm tra công tác phòng chống dịch tại các khu cách ly tập trung, các cơ sở khám chữa bệnh và các khu công nghiệp. Tập trung chỉ đạo đồng bộ các giải pháp phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh và đã kiểm soát được dịch bệnh,…
Đặc biệt, Công tác tiêm vắc xin COVID-19 đảm bảo đạt kế hoạch theo số lượng vắc xin cung ứng thực tế về tỉnh. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ tiêm mũi 2 vắc xin COVID-19 đã trên 71% số người cần tiêm. Tháng 11/12/2021, Quảng Nam bắt đầu triển khai tiêm vắc xin COVID-19 cho trẻ em từ 12-17 tuổi, bước đầu đã triển khai tiêm có hiệu quả.

Một số công tác khác: Trước diễn biến dịch bệnh COVID-19 phức tạp, bên cạnh công tác chống dịch, công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân càng được chú trọng hơn, Ngành y tế Quảng Nam quyết tâm không để dịch chồng dịch. Vì vậy trong năm 2021, công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm như Sốt xuất huyết, Sốt rét, Lao, Sức khỏe tâm thần giảm so với cùng kỳ 2020. Công tác khám chữa bệnh ở các tuyến được nâng cao về chất lượng khám chữa bệnh và thái độ phục vụ,… Đặc biệt, trước đại dịch đối tượng là người già, người có bệnh nền đang điều trị tại các cơ sở y tế trên địa bàn, trẻ em, người khuyết tật, bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, phụ nữ mang thai được cán bộ y tế tư vấn, quan tâm, chăm sóc về dinh dưỡng, sức khỏe và giúp họ vượt qua những khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch. Theo đó, kết quả phòng chống các dịch, bệnh nguy hiểm đạt tốt; không có ca tử vong do HIV/AIDS, Sốt xuất huyết,… Công tác thanh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm được tăng cường, người mắc bệnh nền được cán bộ y tế hỗ trợ tiêm vắc xin phòng COVID-19, bệnh nhân đi lại khó khăn, điều trị tại nhà được cán bộ y tế thăm khám tư vấn chế độ dinh dưỡng, sử dụng thuốc tận tình, chu đáo,…

Nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian đến

Công tác phòng, chống dịch COVID-19 thích ứng, linh hoạt:  Trước tình hình dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến, số ca mắc tăng hằng ngày, theo chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam. Sở Y tế tiếp tục triển khai quyết liệt, mạnh mẽ công tác phòng, chống dịch cũng như công tác điều trị, giảm tối đa ca bệnh nặng và tử vong, giảm tải áp lực đối với bệnh viện tuyến tỉnh, phân tầng, phân luồng cụ thể nhằm đáp ứng công tác điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19 một cách tốt nhất. Dự báo đến những tình huống xấu như có thể xuất hiện biến chủng mới lây nhanh hơn, độc lực không thấp hơn đáng kể so với các chủng virus hiện tại, thậm chí có những biến chủng có thể “lẩn tránh” vắc xin, thuốc điều trị.
Tiếp tục tập trung ưu tiên công tác điều trị tầng 2, tầng 3, giảm tối đa bệnh nặng và tử vong do COVID-19; công tác chuyển tuyến, bố trí bệnh nhân vào các tầng điều trị phù hợp, khoa học, linh hoạt, đúng quy định, quy trình và đúng với mức độ, tình trạng của bệnh.
Cụ thể:
- Tầng 1 (thể nhẹ, không triệu chứng): điều trị tại nhà, cơ sở thu dung điều trị COVID-19 do BCĐ phòng, chống dịch cấp huyện chỉ đạo và quản lý.
- Tầng 2: điều trị tại: Bệnh viện/Trung tâm Y tế cấp huyện, thị xã, thành phố; các bệnh viện chuyên điều trị COVID-19.
- Tầng 3: thực hiện điều trị tại 03 Bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam.
Tổng hợp đánh giá, khẩn trương tham mưu UBND tỉnh banh hành Kế hoạch Phân tầng thu dung, điều trị người bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 trong tình hình mới. Tiếp tục chỉ đạo công tác điều tiết nhân lực cán bộ y tế từ các bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện ngoài công lập/Trung tâm Y tế các huyện, thị xã, thành phố cho các Trạm y tế lưu động để triển khai điều trị F0 tại nhà đạt hiệu quả cao nhất. Tăng cường nâng cao năng lực cấp cứu, hồi sức tích cực cho các cơ sở điều trị COVID-19 bệnh nặng, các bệnh viện/Trung tâm y tế các huyện, thị xã, thành phố theo Quyết định số 3616/QĐ-BYT ngày 29/7/2021 của Bộ Y tế bằng cách đào tạo Ê kíp chuyên sâu. Hoàn thiện hệ thống oxy y tế cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo Quyết định số 4308/QĐ-BYT ngày 07/9/2021 của Bộ Y tế phê duyệt Đề án Tăng cường khả năng cung ứng, sử dụng oxy y tế cho các cơ sở điều trị bệnh nhân COVID-19; tiếp tục triển khai, sử dụng thuốc Molnupiravir 200mg điều trị COVID-19 cho bệnh nhân tại cơ sở thu dung điều trị và tại nhà theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế. Các trường hợp bệnh nhân thể nặng, nguy kịch dương tính với COVID19 vượt khả năng điều trị của các Bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh trên địa bàn tỉnh thì kịp thời chuyển tuyến theo quy định của Bộ Y tế. k) Kịp thời ban hành hướng dẫn điều trị F0 tại nhà và thực hiện quy trình xử lý thi hài do nhiễm COVID-19 tử vong tại nhà để thực hiện thống nhất trên địa bàn tỉnh. Kịp thời hướng dẫn về chuyên môn và phác đồ điều trị COVID-19 mọi lứa tuổi theo hướng dẫn mới nhất của Bộ Y tế. Làm việc và ký phụ lục hợp đồng với BHXH giải quyết những vướng mắc trong thanh toán kinh phí khám, chữa bệnh từ nguồn bảo hiểm y tế đối với bệnh nhân nhiễm COVID-19; đối với bệnh nhân nhiễm COVID-19 có bệnh nền. Củng cố hạ tầng kỹ thuật về ô xy y tế để bảo đảm cung cấp ô xy y tế tại các Trạm Y tế xã, phường, thị trấn và hệ thống ô xy trung tâm để cung cấp ô xy hóa lỏng, khí nén tại tất cả các cơ sở khám, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên.

Công tác trọng tâm 2022

Về công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân: Ngành Y tế phấn đấu giảm tỷ lệ tử vong do bệnh và dịch, bệnh gây ra, góp phần tăng tuổi thọ, nâng cao các chỉ số sức khỏe cơ bản của người dân; nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống y tế đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, công tác dân số trong tình hình mới.

Theo đó, tỷ lệ xã có bác sỹ làm việc là 58,5%, tỷ lệ thấp còi ở trẻ em giảm từ 22% xuống còn 21,4%, tỷ xuất tử vong trẻ em giảm từ 23,6% xuống còn 23,2%,… Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở và y tế dự phòng. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, trong khám, chữa bệnh, Nâng cao chất lượng công tác dự báo, giám sát, phát hiện, khống chế, ngăn chặn hiệu quả không để dịch bệnh lớn xảy ra. Phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm HIV, cùng với cả nước tiến tới chấm dứt bệnh dịch AIDS trước năm 2030. Thực hiện đào tạo chuyên sâu và sửa đổi bổ sung nghị quyết 01/2021/NQ-HĐND. Rà soát, củng cố, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy của các đơn vị trực thuộc ngành y tế theo quy định.

Sẵn sàng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, điều kiện để đảm bảo hoàn thành tiêm mũi vắc xin cho trẻ em và tiêm mũi 3 có người từ 18 tuổi trở lên. Đẩy nhanh tiêm vắc xin cho trẻ từ 12-17 tuổi. Thực hiện tiêm chủng vắc xin tại các Trạm y tế xã/phường/thị trấn. Rà soát số đối tượng chưa tiêm vắc xin để tiêm.

Về tiếp tục công tác phòng chống dịch COVID-19: tăng cường triển khai các biện pháp kiểm soát dịch trong tình hình mới, thích ứng, linh hoạt, an toàn phòng chống dịch theo Nghị quyết 128/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định 4800/QĐ-BYT của Bộ Y tế và chỉ đạo của Trung tâm chỉ huy phòng chống dịch COVID-19 tỉnh Quảng Nam. Tiếp tục mở rộng sử dụng cơ sở vật chất hiện có để thành lập cơ sở cách ly tập trung tiếp nhận, điều trị bệnh nhân F0 thể nhẹ, không triệu chứng tại tuyến huyện/xã/thành phố. Xây dựng kịch bản điều trị F0 thể nhẹ tại nhà đồng thời xây dựng quy trình hướng dẫn, chăm sóc người mắc COVID-19 chủ động trong mọi tình huống dịch bệnh. Xây dựng các phương án khuyến khích người dân chủ động tự xét nghiệm tại nhà, cơ quan, đơn vị. Xây dựng và hướng dẫn sử dụng gói thuốc an sinh sử dụng cho điều trị F0 tại nhà nếu dịch bệnh bùng phát và đảm bảo tinh thần “F0 phải được điều trị sớm nhất, không phải đi viện sớm nhất”,…

Với những kết quả đạt được thời gian qua và mục tiêu, định hướng đặt ra trong năm 2022, Ngành Y tế tỉnh Quảng Nam tiếp tục thực hiện tốt sứ mệnh “Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân” tỉnh nhà được Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó, quyết tâm khẳng định được tâm thế, vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trước tính mạng và sức khoẻ của người dân. Đặc biệt, qua những đợt đối phó với “giặc” COVID-19, sẽ là những bài học, kinh nghiệm quý báu để rút ra và từ đó có những định hướng đúng đắn trong công tác phòng, chống dịch. Cùng với cả nước, Ngành Y tế Quảng Nam quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, tăng cường bao phủ vắc xin COVID-19, giúp nhân dân Quảng Nam có thể yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế và ổn định cả đời sống vật chất lẫn tinh thần./.