SKĐS - Thống kê của Bộ Y tế cho thấy số ca mắc mới COVID-19 và bệnh nhân nặng đang gia tăng tại các cơ sở điều trị. Số bệnh nhân tử vong cũng liên tục ghi nhận những ngày gần đây; Tiếp tục theo dõi, bám sát tình hình dịch bệnh, nhất là sự xuất hiện các biến thể mới của virus SARS-CoV-2.
Bệnh nhân COVID-19 nặng tăng nhanh
Bộ Y tế cho biết ngày 5/9 có 2.161 ca COVID-19 mới, cao hơn gần 700 ca so với hôm qua. Cũng trong ngày 5/9, số bệnh nhân khỏi tăng vọt so với những ngày trước đó với gần 21.000 trường hợp; có 2 bệnh nhân tại Thanh Hoá và Tây Ninh tử vong.

Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 11.421.055 ca nhiễm, đứng thứ 12/227quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 112/227 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 115.085 ca nhiễm).

dscf0263 anh tminh 16623869227571904559297

Đến nay tổng số người mắc COVID-19 ở nước ta đã khỏi là 10.232.281 ca. Hiện nay đang điều trị, giám sát hơn 1,145 triệu trường hợp, trong đó có 144 trường hợp nặng đang điều trị, trong đó: Thở ô xy qua mặt nạ: 133; Thở ô xy dòng cao HFNC: 3; Thở xâm lấn: 8. Số ca bệnh nặng này tăng 45 trường hợp so với ngày trước đó.
Những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể làm cho dịch COVID-19 trở nên phức tạp và gia tăng trở lại
Dịch bệnh được dự báo vẫn còn diễn biến khó lường trên thế giới trong thời gian tới. Tổ chức Y tế thế giới đánh giá thế giới vẫn đang trong giai đoạn đại dịch và cảnh báo về những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể làm cho dịch COVID-19 trở nên phức tạp và gia tăng trở lại.

Vaccine vẫn là biện pháp quan trọng trong phòng, chống dịch; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh tiêm chủng, chủ động xây dựng và triển khai các kịch bản, phương án đáp ứng với mọi tình huống dịch bệnh; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác.

Trong nước cũng đã ghi nhận trường hợp nhiễm biến thể phụ BA.4, BA.5, BA.2.74 trong cộng đồng, nhất là biến thể phụ BA.5 đang tiến tới chiếm ưu thế trong số các ca mắc, nhất là trong 7 ngày qua cả nước ghi nhận trung bình khoảng 2.500 ca mắc mới mỗi ngày (có ngày ghi nhận cao với trên 3.000 ca), số ca mắc đang có xu hướng gia tăng trở lại.

Theo các chuyên gia dịch tễ, việc xuất hiện các biến thể phụ mới của Omicron (BA.4, BA.5, BA.2.75, BA.2.12.1) ở nước ta đã khiến ca mắc mới COVID-19, bệnh nhân nặng nhập viện gần đây tăng mạnh.

Trong số hàng chục mẫu bệnh phẩm được Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và Viện Pasteur TP HCM làm giải trình tự gene thời gian qua cho thấy, biến thể phụ BA.5 chiếm 60% ở các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra, còn tại TP HCM thì biến thể này chiếm đến 80% các ca bệnh. Theo đánh gía các biến thể phụ này đều có khả năng lẩn tránh miễn dịch. Đáng lưu ý, qua đánh giá các ca bệnh COVID-19 nặng và tử vong, có khoảng 35% số ca bệnh chưa tiêm hoặc chưa tiêm đủ vaccine COVID-19.

Đẩy mạnh tiêm vaccine COVID-19 để kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh
Do đó cần tiếp tục tăng cường công tác thông tin, truyền thông về phòng, chống dịch bệnh; tuyên truyền nâng cao kiến thức người dân hướng đến thay đổi hành vi cá nhân có lợi cho sức khỏe để phòng, chống dịch bệnh và tiêm vaccine, lợi ích, hiệu quả của vaccine phòng COVID-19 nhằm kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh.

Tiếp tục tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19. Tăng cường công tác phân tích, dự báo tình hình dịch để có phương án đáp ứng hiệu quả với các tình huống dịch bệnh có thể xảy ra, nhất là đối với các biến thể mới của COVID-19.

Theo dõi, bám sát tình hình dịch bệnh trên địa bàn, nhất là sự xuất hiện các biến thể mới của virus SARS-CoV-2; giám sát sự lưu hành của virus SARS-CoV-2 để phát hiện các biến thể và các biến thể phụ khác; thường xuyên đánh giá cấp độ dịch để kịp thời điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch theo Nghị quyết 128/NQ-CP; tăng cường giám sát phát hiện sớm, điều trị kịp thời các trường hợp mắc bệnh, hạn chế các trường hợp chuyển bệnh nặng, tử vong.

Tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc, hỗ trợ địa phương đẩy nhanh tiêm vaccine phòng COVID-19, nhất là mũi 3, mũi 4 cho người từ 12 tuổi trở lên; tiêm đủ 2 mũi cho trẻ em từ 5 - dưới 12 tuổi theo mục tiêu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, bảo đảm an toàn, khoa học, hiệu quả.

SKĐS - Hôm nay 5/9, hàng triệu trẻ trong độ tuổi từ 5 - dưới 18 tuổi bước vào năm học mới. Đây cũng là thời điểm thời tiết thay đổi thất thường, thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virus phát triển, lây lan nhanh đe dọa sức khỏe của trẻ, đặc biệt trước bối cảnh dịch COVID-19 đang có nguy cơ gia tăng trở lại.
Biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể làm cho dịch COVID-19 trở nên phức tạp và gia tăng trở lại
Bộ Y tế cho biết ngày 4/9 có 1.390 ca mắc mới COVID-19, trong ngày có 6.390 bệnh nhân khỏi, gấp gần 5 lần số mắc mới, có 1 bệnh nhân tại Thanh Hoá tử vong. Đây là ngày thứ 3 liên tiếp ghi nhận ca tử vong tại Hà Nội, Khánh Hoà và Thanh Hoá.

Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 11.418.894 ca nhiễm, đứng thứ 12/227quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 112/227 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 115.066 ca nhiễm).

tiem vaccine covid 19 16614326115701351454029

Đến nay, tổng số người mắc COVID-19 ở nước ta đã khỏi: 10.211.563 ca; Hiện nay đang điều trị, giám sát 1.164.212 trường hợp, trong đó có 89 trường hợp nặng đang điều trị, trong đó: Thở ô xy qua mặt nạ: 78 ca; Thở ô xy dòng cao HFNC: 3 ca; Thở máy không xâm lấn: 0 ca; Thở máy xâm lấn: 8 ca.
Dịch bệnh được dự báo vẫn còn diễn biến khó lường trên thế giới trong thời gian tới. Tổ chức Y tế thế giới đánh giá thế giới vẫn đang trong giai đoạn đại dịch và cảnh báo về những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể làm cho dịch COVID-19 trở nên phức tạp và gia tăng trở lại.

Vaccine vẫn là biện pháp quan trọng trong phòng, chống dịch; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh tiêm chủng, chủ động xây dựng và triển khai các kịch bản, phương án đáp ứng với mọi tình huống dịch bệnh; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác.

Phải đẩy nhanh tiêm vaccine phòng COVID-19 để bảo vệ trẻ khi đến trường
Hôm nay, hàng triệu học sinh trên cả nước đến trường, khi học sinh bắt đầu bước vào năm học mới cũng là thời điểm thời tiết thay đổi thất thường, thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virus phát triển, lây lan nhanh và bùng phát thành dịch đe dọa sức khỏe của trẻ; đặc biệt trước bối cảnh dịch COVID-19 đang có nguy cơ gia tăng trở lại.

tiên yên tiêm mũi 3 vắc xin phòng covid 19 cho trẻ từ 12 đến dưới 18 tuổi 1

Hàng triệu trẻ vào năm học mới, vẫn có 5 nơi tiêm vaccine COVID-19 cho nhóm từ 5 - dưới 12 tuổi thấp nhất cả nước
Ca mắc mới, bệnh nhân COVID-19 nặng tăng, nhiều nơi sốt sắng tổ chức chiến dịch cao điểm tiêm vaccine
Trong nước cũng đã ghi nhận trường hợp nhiễm biến thể phụ BA.4, BA.5, BA.2.74 trong cộng đồng, nhất là biến thể phụ BA.5 đang tiến tới chiếm ưu thế trong số các ca mắc, nhất là trong 7 ngày qua cả nước ghi nhận trung bình khoảng 2.700 ca mắc mới mỗi ngày (có ngày ghi nhận cao với trên 3.000 ca), số ca mắc đang có xu hướng gia tăng trở lại.

Do đó cần tiếp tục tăng cường công tác thông tin, truyền thông về phòng, chống dịch bệnh; tuyên truyền nâng cao kiến thức người dân hướng đến thay đổi hành vi cá nhân có lợi cho sức khỏe để phòng, chống dịch bệnh và tiêm vaccine, lợi ích, hiệu quả của vaccine phòng COVID-19 nhằm kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh.

Tiếp tục tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19. Tăng cường công tác phân tích, dự báo tình hình dịch để có phương án đáp ứng hiệu quả với các tình huống dịch bệnh có thể xảy ra, nhất là đối với các biến thể mới của COVID-19.

Tiếp tục chủ động bám sát diễn biến tình hình dịch, sự xuất hiện của các biến chủng mới; thường xuyên trao đổi với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) để cập nhật thông tin kịp thời, chính xác về các biến chủng

Tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc, hỗ trợ địa phương đẩy nhanh tiêm vaccine phòng COVID-19, nhất là mũi 3, mũi 4 cho người từ 12 tuổi trở lên; tiêm đủ 2 mũi cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi theo mục tiêu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, bảo đảm an toàn, khoa học, hiệu quả.

Bên cạnh việc tiêm vaccine đầy đủ, phụ huynh nên chú trọng vệ sinh đường hô hấp cho trẻ như nhỏ nước mũi, súc miệng nước muối, rửa tay, khử khuẩn thường xuyên… Ngay cả với người lớn cũng cần giữ vệ sinh, như đi ra ngoài về cần rửa tay, khử khuẩn tay trước khi bế ẵm trẻ nhỏ để tránh mầm bệnh lây lan cho trẻ. Khi có dấu hiệu bất thường về sức khỏe, phụ huynh nên đưa trẻ đến các cơ sở y tế uy tín để được chẩn đoán và điều trị.

SKĐS - Theo Bộ Y tế, qua đánh giá các ca bệnh COVID-19 nặng và tử vong, có khoảng 35% số ca bệnh chưa tiêm hoặc chưa tiêm đủ vaccine phòng COVID-19, Bộ Y tế đề nghị tăng cường rà soát và triển khai truyền thông và tiêm vaccine cho người dân, đặc biệt là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.

Bộ Y tế ngày 30/8 đã có văn bản gửi Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Giám đốc Bệnh viện, Viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế; Thủ trưởng Y tế các Bộ, ngành về việc rà soát, chấn chỉnh và tăng cường thu dung, quản lý, điều trị ca bệnh COVID-19.

Theo báo cáo đến ngày 25/8/2022 đến nay cả nước ghi nhận 11.396.205 ca mắc COVID-19, với trên 10 triệu người khỏi, tử vong 43.110 ca.

Từ đầu năm 2022 số ca mắc, ca nặng, nguy kịch giảm nhiều, tuy nhiên từ đầu tháng 8 đến nay số ca mắc mới đang có xu hướng tăng dần với các biến thể phụ mới của chủng Omicron (BA.4, BA.5, BA.2.75, BA.2.12.1) trung bình khoảng 2.000 ca mắc mỗi ngày cùng với đó số ca nặng, nguy kịch cũng gia tăng và xuất hiện các ca tử vong do COVID-19.

00323.00 08 16 02.Still009

Qua đánh giá của Tiểu ban điều trị, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế tại cuộc họp ngày 19/8/2022 nhằm giảm nguy cơ chuyển nặng, hạn chế tối đa tử vong và bảo vệ các đối tượng nguy cơ trong các cơ sở khám, chữa bệnh, Bộ Y tế yêu cầu Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Giám đốc các Bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Bộ, Thủ trưởng Y tế các Bộ, ngành rà soát, đánh giá và tiếp tục đẩy mạnh triển khai một số giải pháp cụ thể:

Rà soát kế hoạch thu dung, điều trị người bệnh COVID-19 của tỉnh, của đơn vị, có kế hoạch phân công cụ thể tới từng đơn vị số giường bệnh COVID-19 để thu dung, điều trị người bệnh COVID-19 có chỉ định nhập viện theo nguyên tắc 4 tại chỗ. Bố trí nhân lực để theo dõi, chăm sóc, điều trị người bệnh COVID- 19 nhập viện để phát hiện sớm tình trạng chuyển nặng, xử trí kịp thời hạn chế tử vong.

Tăng cường hội chẩn tại bệnh viện, hội chẩn với tuyến trên để xin ý kiến về chuyên môn, hạn chế tối đa việc chuyển người bệnh lên tuyến trên. Đối với các ca bệnh vượt quá khả năng chuyên môn, khi chuyển viện phải hội chẩn, liên hệ với bệnh viện tuyến trên trước khi chuyển và bảo đảm an toàn đối với người bệnh chuyển viện.

Tại các cơ sở điều trị tăng cường các biện pháp phòng lây nhiễm hạn chế tối đa lây lan dịch bệnh trong bệnh viện đặc biệt tăng cường bảo vệ người bệnh thuộc nhóm có nguy cơ cao, khu hồi sức tích cực, tim mạch, thận nhân tạo, phẫu thuật…

Bộ Y tế yêu cầu đối với các ca bệnh nặng, ca bệnh nghi ngờ COVID-19 nằm tại các Bệnh viện khuyến cáo thực hiện xét nghiệm PCR để chẩn đoán mắc COVID-19 tránh bỏ sót ca bệnh để dịch bệnh lan rộng (khi kết quả xét nghiệm kháng nguyên nhanh âm tính nhưng vẫn nghi ngờ COVID-19).

Các Bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến cuối điều trị COVID-19 cần theo dõi, đánh giá lâm sàng các ca bệnh COVID-19 nặng nhập viện hiện nay và gửi xét nghiệm giải trình tự gen để đánh giá mức độ nặng, nguy kịch báo cáo Bộ Y tế để xem xét điều chỉnh các hướng dẫn chuyên môn.

Qua đánh giá các ca bệnh COVID-19 nặng và tử vong thấy có khoảng 35% số ca bệnh chưa tiêm hoặc chưa tiêm đủ vaccine do vậy đề nghị các Sở Y tế tăng cường rà soát và triển khai truyền thông và tiêm vaccine cho người dân theo đúng hướng dẫn đặc biệt là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.

Tiếp tục triển khai tập huấn hướng dẫn chẩn đoán, điều trị COVID-19 cho nhân viên y tế. Thống kê thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ điều trị COVID-19 để đề nghị hỗ trợ khi cần thiết.

Nghiêm túc báo cáo số liệu hàng ngày trên Hệ thống quản lý COVID-19 của Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế theo địa chỉ cdc.kcb.vn.


SKĐS - Theo Bộ Y tế, số ca mắc COVID-19 mới, số ca phải nhập viện, số ca nặng đang có chiều hướng gia tăng, nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới với khả năng lây nhanh hơn và chỉ còn 2 ngày nữa để đạt mục tiêu tiêm vaccine COVID-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi, nhưng nhiều địa phương tiêm rất chậm, thấp.

article

Về tiêm vaccine COVID-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi, đến nay sau 4,5 tháng triển khai tiêm trên toàn quốc, tổng số mũi vaccine đã tiêm cho trẻ trong độ tuổi này là 15.298.609, trong đó mũi 1: 9.284.426 trẻ (đạt tỷ lệ 83,3%); tăng 0,4% so với ngày trước đó.

  • 5 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm thấp dưới 67% là: Đà Nẵng (59,6%); Quảng Nam (58,9%); Bình Thuận (66,3%); TP Hồ Chí Minh (54,8%); Bình Dương (60,6%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Kon Tum (98,3%); Cần Thơ (99,4%); Cà Mau (98%).

Mũi 2: 6.014.183 trẻ (đạt tỷ lệ 53,9%); tăng 0,5% so với ngày trước đó

  • 5 tỉnh, thành có tỷ lệ tiêm thấp dưới 38% là: Đà Nẵng (21,4%); Quảng Nam (19,9%); TP Hồ Chí Minh (31,5%); Bà Rịa - Vũng Tàu (37,9%); Bình Dương (27,2%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao: Bắc Giang (85,6%); Ninh Thuận (81,8%); Sóc Trăng (91,4%).

Đối với nhóm từ 18 tuổi trở lên:

Tiêm mũi 3: Tổng số có 49.972.687 mũi tiêm (76,3%) tăng 0,1%, trong ngày có 39 tỉnh triển khai với 47.949 người được tiêm:

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp:Bình Định (56,9%); Khánh Hòa (55,3%); Đồng Nai (52,7%); Đồng Tháp (58,7%); Bình Phước (57,8%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Thanh Hóa (95,6%); Bắc Giang (98,1%); Nghệ An (99,5%).

Tiêm mũi 4:Tổng số có 14.109.606 mũi tiêm (74,6%) tăng 0,5%, trong ngày có 39 tỉnh triển khai với 92.551 người được tiêm.

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp:Quảng Trị (55,7%); Đà Nẵng (46,6%); TP. Hồ Chí Minh (50,4%); Đồng Nai (53,2%); Tây Ninh (54,6%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Bắc Giang (96,9%); Hưng Yên (97,2%); Bắc Kạn (96,4%).

Đối với nhóm từ 12-17 tuổi: Tiêm mũi 3: 4.443.023 trẻ (đạt tỷ lệ 51,4%) tăng 0,5% so với ngày trước đó.

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp: Đà Nẵng (28,9%); Phú Yên (17%); BR-VT (14,7%); Đồng Nai (23,4%); Bình Dương (22,7%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Bắc Giang (90,4%); Quảng Ninh (86,5%); Sóc Trăng (86,2%).

Tại lễ phát động Chiến dịch tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 "Vui Trung thu và tựu trường an toàn" do Bộ Y tế và Unicef cùng UBND tỉnh Phú Yên tổ chức sáng 29/8 tại Phú Yên, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương thông tin, trong thời gian gần đây, số ca mắc mới bệnh COVID-19, số ca phải nhập viện, số ca nặng đang có chiều hướng gia tăng, nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới của virus với khả năng lây nhanh hơn biến chủng gốc, lại xuất hiện nhiều bệnh dịch như sốt xuất huyết, cúm mùa, tay chân miệng, nguy cơ cao xâm nhập các bệnh dịch mới nổi như bệnh đậu mùa khỉ...

Tại một số địa phương, việc tiêm vaccine chưa bảo đảm yêu cầu, tiến độ tiêm chủng còn chậm, nhất là tiêm mũi 1, mũi 2 cho trẻ em từ 5 - dưới 12 tuổi, tiêm mũi 3 cho trẻ từ 12 - dưới 18 tuổi còn thấp.

Do đó, Bộ Y tế kêu gọi các địa phương tăng cường truyền thông, nêu rõ lợi ích của tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 đối với những người có nguy cơ cao, đặc biệt là trẻ em. Vận động phụ huynh đồng thuận để trẻ trong độ tuổi từ 12- dưới 18 tuổi được tiêm mũi 3 vaccine phòng COVID-19; tiêm đầy đủ 2 mũi vaccine phòng COVID-19 cho các em từ 5 - dưới 12 tuổi; tổ chức tiêm an toàn, khoa học, hiệu quả theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Ngày 29/8, Bộ Y tế thông tin cập nhật về tình hình tiêm vaccine COVID-19 ở nước ta cho biết, số mũi tiêm thực hiện trong ngày là 292.968 tại 45 tỉnh, thành, trong đó 256.989 mũi cho người từ 12 tuổi trở lên và 35.979 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi (tăng gấp hơn 2 lần so với ngày trước đó), nâng tổng số vaccine đã tiêm ở nước ta đến nay là 256.291.765 mũi.

Về tiêm vaccine COVID-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi, đến nay sau 4,5 tháng triển khai tiêm trên toàn quốc, tổng số mũi vaccine đã tiêm cho trẻ trong độ tuổi này là 15.298.609, trong đó mũi 1: 9.284.426 trẻ (đạt tỷ lệ 83,3%); tăng 0,4% so với ngày trước đó.

  • 5 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm thấp dưới 67% là: Đà Nẵng (59,6%); Quảng Nam (58,9%); Bình Thuận (66,3%); TP Hồ Chí Minh (54,8%); Bình Dương (60,6%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Kon Tum (98,3%); Cần Thơ (99,4%); Cà Mau (98%).

Mũi 2: 6.014.183 trẻ (đạt tỷ lệ 53,9%); tăng 0,5% so với ngày trước đó

  • 5 tỉnh, thành có tỷ lệ tiêm thấp dưới 38% là: Đà Nẵng (21,4%); Quảng Nam (19,9%); TP Hồ Chí Minh (31,5%); Bà Rịa - Vũng Tàu (37,9%); Bình Dương (27,2%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao: Bắc Giang (85,6%); Ninh Thuận (81,8%); Sóc Trăng (91,4%).


Đối với nhóm từ 18 tuổi trở lên:

Tiêm mũi 3: Tổng số có 49.972.687 mũi tiêm (76,3%) tăng 0,1%, trong ngày có 39 tỉnh triển khai với 47.949 người được tiêm:

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp:Bình Định (56,9%); Khánh Hòa (55,3%); Đồng Nai (52,7%); Đồng Tháp (58,7%); Bình Phước (57,8%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Thanh Hóa (95,6%); Bắc Giang (98,1%); Nghệ An (99,5%).

Tiêm mũi 4:Tổng số có 14.109.606 mũi tiêm (74,6%) tăng 0,5%, trong ngày có 39 tỉnh triển khai với 92.551 người được tiêm.

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp:Quảng Trị (55,7%); Đà Nẵng (46,6%); TP. Hồ Chí Minh (50,4%); Đồng Nai (53,2%); Tây Ninh (54,6%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Bắc Giang (96,9%); Hưng Yên (97,2%); Bắc Kạn (96,4%).

Đối với nhóm từ 12-17 tuổi: Tiêm mũi 3: 4.443.023 trẻ (đạt tỷ lệ 51,4%) tăng 0,5% so với ngày trước đó.

  • 5 tỉnh có tỷ lệ tiêm thấp: Đà Nẵng (28,9%); Phú Yên (17%); BR-VT (14,7%); Đồng Nai (23,4%); Bình Dương (22,7%).
  • 3 tỉnh có tỷ lệ tiêm cao:Bắc Giang (90,4%); Quảng Ninh (86,5%); Sóc Trăng (86,2%).

·          

Tại lễ phát động Chiến dịch tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 "Vui Trung thu và tựu trường an toàn" do Bộ Y tế và Unicef cùng UBND tỉnh Phú Yên tổ chức sáng 29/8 tại Phú Yên, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương thông tin, trong thời gian gần đây, số ca mắc mới bệnh COVID-19, số ca phải nhập viện, số ca nặng đang có chiều hướng gia tăng, nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới của virus với khả năng lây nhanh hơn biến chủng gốc, lại xuất hiện nhiều bệnh dịch như sốt xuất huyết, cúm mùa, tay chân miệng, nguy cơ cao xâm nhập các bệnh dịch mới nổi như bệnh đậu mùa khỉ...

Tại một số địa phương, việc tiêm vaccine chưa bảo đảm yêu cầu, tiến độ tiêm chủng còn chậm, nhất là tiêm mũi 1, mũi 2 cho trẻ em từ 5 - dưới 12 tuổi, tiêm mũi 3 cho trẻ từ 12 - dưới 18 tuổi còn thấp.

Do đó, Bộ Y tế kêu gọi các địa phương tăng cường truyền thông, nêu rõ lợi ích của tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 đối với những người có nguy cơ cao, đặc biệt là trẻ em. Vận động phụ huynh đồng thuận để trẻ trong độ tuổi từ 12- dưới 18 tuổi được tiêm mũi 3 vaccine phòng COVID-19; tiêm đầy đủ 2 mũi vaccine phòng COVID-19 cho các em từ 5 - dưới 12 tuổi; tổ chức tiêm an toàn, khoa học, hiệu quả theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

SKĐS – Ngày 27/8, thế giới có 44.503 ca đậu mùa khỉ, 12 trường hợp tử vong, đã ghi nhận lây nhiễm trong cơ sở y tế. Theo Bộ Y tế, nước ta cũng đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn dịch đậu mùa khỉ xâm nhập trong cộng đồng và các cơ sở khám chữa bệnh. Bộ Y tế vừa ban hành Hướng dẫn phòng ngừa lây nhiễm bệnh đậu mùa khỉ trong cơ sở khám, chữa bệnh.

Dau mua khi

Theo hướng dẫn do Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn ký ban hành, từ tháng 5/2022 đến nay, dịch đã có diễn biến bất thường, đã ghi nhận thêm nhiều quốc gia lần đầu tiên xuất hiện các ổ dịch. Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Cơ quan phòng chống dịch bệnh Châu Âu (European CDC), Cơ quan phòng, chống dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC) tính tới 23/8/2022, tổng số ca bệnh đậu mùa khỉ được công bố tại 96 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới là trên 44.503 ca, với phần lớn trong số này (44.116 ca) là số ca nhiễm ở những địa điểm chưa có báo cáo về bệnh đậu mùa ở khỉ trong lịch sử.

Từ tháng 1-7/2022 có 12 trường hợp tử vong được thông báo tại 5 quốc gia: Cộng hòa Trung Phi, Ghana, Nigeria, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Brazil và Ecuardo.

Chỉ trong tháng 7/2022, số ca trên toàn cầu đã tăng hơn 20.000 ca và xuất hiện thêm ở 39 quốc gia/vùng lãnh thổ mới. Hiện tại, một số quốc gia gần với Việt Nam như Thái Lan, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đã ghi nhận ca nhiễm bệnh.

Theo Bộ Y tế tại Việt Nam, đến ngày 21/8/2022 vẫn chưa ghi nhận ca mắc bệnh đậu mùa khỉ. Tuy nhiên trước tình hình mở cửa đón khách du lịch và các đối tác kinh tế trở lại sau khi dịch COVID-19 được khống chế, chúng ta cũng đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn dịch đậu mùa khỉ xâm nhập trong cộng đồng và các cơ sở khám bệnh chữa bệnh. Trên thế giới cũng đã ghi nhận lây nhiễm bệnh đậu mùa khỉ tại cơ sở y tế.

6 nguyên tắc dự phòng và kiểm soát lây nhiễm bệnh đậu mùa khỉ trong cơ sở khám chữa bệnh. Bộ Y tế nêu rõ cần:
1. Tăng cường tuân thủ thực hành phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở KBCB.
2. Áp dụng phòng ngừa lây nhiễm qua "tiếp xúc" và "giọt bắn" khi chăm sóc các trường hợp bệnh xác định và bệnh nghi ngờ.
3. Trong trường hợp có các thủ thuật tạo khí dung, bắt buộc áp dụng thêm các biện pháp dự phòng qua "không khí".
4. Điều tra, truy vết, xác định người tiếp xúc gần nhằm theo dõi, quản lý và tư vấn cách tự theo dõi sức khỏe theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
5. Quản lý người nhà người bệnh và khách thăm có liên quan đến đâu mùa khỉ.
6. Sàng lọc người nhiễm, nghi ngờ nhiễm bệnh đậu mùa khỉ

Dự phòng và kiểm soát lây nhiễm ca bệnh đậu mùa khỉ trong cơ sở khám chữa bệnh thế nào?

Bộ Y tế hướng dẫn cơ sở khám chữa bệnh triển khai sàng lọc người bệnh nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh đậu mùa khỉ khi có tại địa phương có thông báo ca bệnh đậu mùa khỉ trong cộng đồng hoặc cơ sở khám chữa bệnh.

- Đặt biển báo tại cổng vào của cơ sở khám chữa bệnh để người bệnh có thể nhận biết ngay hướng đi tới khu sàng lọc. Một số nội dung cần được ghi rõ trong biển báo: yếu tố dịch tễ (tiếp xúc với động vật, người nghi ngờ hoặc xác định nhiễm đậu mùa khỉ, đậu mùa hoặc tiếp xúc với đồ dùng/vật dụng của họ) và dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng của bệnh đậu mùa khỉ.
Khu vực sàng lọc cần được bố trí tại đơn vị khám bệnh và cấp cứu. Với những cơ sở khám chữa bệnh không có điều kiện bố trí khu sàng lọc trong nhà có thể thiết lập khu vực sàng lọc ngoài trời.
Nhân viên y tế thực hiện sàng lọc mang phương tiện phòng hộ phù hợp (khẩu trang y tế, mũ giấy, áo choàng phòng dịch và găng tay y tế).
Bộ Y tế lưu ý khi khám sàng lọc lưu ý khai thác tiền sử dịch tễ, các dấu hiệu triệu chứng của bệnh. Nội dung câu hỏi sàng lọc cần cập nhật phù hợp với diễn biến tình hình bệnh dịch; Yêu cầu người bệnh mang khẩu trang y tế nếu tình trạng người bệnh cho phép.
- Cách ly người bệnh xác định nhiễm hoặc ca bệnh nghi ngờ tại Khoa Truyền nhiễm hoặc khu cách ly của cơ sở khám chữa bệnh.
- Các đơn vị lâm sàng của cơ sở khám chữa bệnh bố trí sẵn sàng một buồng cách ly để sử dụng khi phát hiện người bệnh nội trú nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh đậu mùa khỉ hoặc để điều trị người bệnh đậu mùa khỉ vừa hoặc nhẹ kèm theo bệnh chuyên khoa mà không thể chuyển về đơn vị riêng điều trị đậu mùa khỉ của cơ sở khám chữa bệnh. Tùy theo tình hình bệnh dịch, có thể tăng số buồng cách ly cho đậu mùa khỉ tại đơn vị lâm sàng.

Buồng cách ly người bệnh phải được dán biển cảnh báo "Buồng cách ly" và nêu rõ các biện pháp cách ly cần áp dụng, giường bệnh cách nhau tối thiểu 1 mét. Hạn chế vận chuyển người bệnh ra ngoài khu cách ly.
Bộ Y tế cũng lưu ý phòng ngừa lây nhiễm tại đơn vị cấp cứu bằng cách: Bố trí các buồng, hoặc khu vực để sàng lọc, cách ly người xác định nhiễm và nghi ngờ nhiễm; Trong trường hợp người bệnh nghi nhiễm chưa thể sàng lọc được thì ưu tiên cấp cứu, thực hiện cách ly và áp dụng các biện pháp phòng ngừa như trường hợp xác định nhiễm và nghi ngờ nhiễm.
Bộ Y tế cũng khuyến cáo: Phụ nữ có thai không được tiếp xúc với người xác định nhiễm, nghi ngờ nhiễm đậu mùa khỉ.
Nếu bị nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm đậu mùa khỉ phải được theo dõi thêm của bác sĩ chuyên khoa Sản;
Nếu sản phụ sinh đẻ trong thời gian bị nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm đậu mùa khỉ, nhân viên y tế phải áp dụng tối đa các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm khi đỡ đẻ hoặc thực hiện các thủ thuật lấy thai.
"Trẻ sơ sinh được sinh ra từ mẹ mắc bệnh đậu mùa khỉ cần được giám sát chặt chẽ để phát hiện kịp thời đậu mùa khỉ"- Hướng dẫn của Bộ Y tế nêu rõ.
Đối với người bệnh đang cho con bú cần cách ly mẹ và con trong giai đoạn bệnh đang tiến triển; Tạm dừng cho con bú trực tiếp trong giai đoạn bệnh đang tiến triển, nhưng vẫn có thể vắt sữa mẹ để nuôi dưỡng trẻ...

4 mức phân loại và đánh giá nguy cơ lây nhiễm đậu mùa khỉ trong cơ sở khám chữa bệnh

Nguy cơ cao: Những trường hợp tiếp xúc gần, trực tiếp mà không sử dụng phương hộ phòng hộ như: Người tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm bệnh bao gồm các tiếp xúc da kề da với bệnh nhân (như sờ, chạm...) và quan hệ tình dục; Nhân viên y tế không sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân thích hợp khi trực tiếp khám, chăm sóc, điều trị; Người cùng làm việc trong khoảng cách gần hoặc ở cùng phòng làm việc, với không gian kín hoặc thông khí kém mà không sử dụng khẩu trang, phương tiện phòng hộ cần theo dõi sức khỏe trong 21 ngày sau phơi nhiễm; Thực hiện báo cáo ca bệnh có thể nếu có biểu hiện triệu chứng; Tiêm vaccine theo hướng dẫn;

Nguy cơ trung bình: Tiếp xúc gần với các vật dụng có nguy cơ lây nhiễm như: Tiếp xúc với các vật dụng sinh hoạt của người bệnh: quần áo, chăn, chiếu, gối...; Một số tình huống phơi nhiễm đặc biệt khác do cán bộ dịch tễ trực tiếp điều tra xác định, bao gồm cả phơi nhiễm trong phòng xét nghiệm cần theo dõi sức khỏe trong 21 ngày sau phơi nhiễm; Thực hiện báo cáo ca bệnh có thể nếu có biểu hiện triệu chứng; Tiêm vaccine ngay theo hướng dẫn;

Nguy cơ thấp: Là những trường hợp tiếp xúc với trường hợp bệnh đậu mùa khỉ nhưng có sử dụng phương tiện phòng hộ; Tiếp xúc trong cộng đồng từ 1-3 mét với trường hợp nghi ngờ nhiễm đậu mùa khỉ cần theo dõi sức khỏe trong 21 ngày; Bộ phận giám sát lưu lại thông tin liên lạc theo hướng dẫn giám sát và phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ của Bộ Y tế; Thực hiện tiêm vaccine cho đối tượng ưu tiên theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Không nguy cơ: Không có tiếp xúc với ca bệnh đậu mùa khỉ có triệu chứng trong 21 ngày qua; Nhân viên phòng xét nghiệm tuân thủ sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân; Thực hiện tiêm vaccine cho đối tượng ưu tiên theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

TT-GDSK

Sáng ngày 25/8, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương, chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc về tăng cường công tác phòng, chống dịch và tiêm vắc-xin phòng COVID-19.

Hoi nghi TT

Toàn cảnh điểm cầu trực tuyến tại Quảng Nam

Dự hội nghị tại điểm cầu Sở Y tế Quảng Nam có Ts.Bs Nguyễn Văn Văn - PGĐ Sở Y tế, đại diện Phòng chức năng thuộc Sở, Lãnh đạo CDC Quảng Nam và các Khoa/phòng liên quan.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến ngày 23/8, cả nước đã triển khai tiêm được hơn 255 triệu mũi vắc-xin phòng COVID-19, trong đó, số mũi tiêm cho trẻ từ 5-11 tuổi là hơn 14,7 triệu mũi; số mũi tiêm cho trẻ từ 12-17 tuổi là hơn 22 triệu mũi và số mũi tiêm cho người từ 18 tuổi trở lên là hơn 218,3 triệu mũi. Tỷ lệ tiêm mũi 4 ở người từ 18 tuổi trở lên đạt 70,2%; ở trẻ từ 12-17 tuổi, tỷ lệ tiêm mũi 3 đạt 48,5%; tỷ lệ tiêm mũi 2 ở trẻ từ 5-11 tuổi đạt 51,2%. Tiến độ tiêm mũi 4 cho người từ 18 tuổi trở lên; tiêm mũi 3 cho trẻ từ 12-17 tuổi và tiêm mũi 2 cho trẻ từ 5-11 tuổi ở nhiều địa phương còn thấp.

Tại hội nghị, đại diện Cục Y tế dự phòng đã hướng dẫn sở Y tế các tỉnh, thành phố công tác giám sát và phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ; Cục Công nghệ thông tin, Bộ Y tế thông tin về kết quả triển khai nền tảng quản lý tiêm chủng; các địa phương báo cáo tình hình dịch, tiến độ tiêm và những khó khăn trong quá trình triển khai tiêm vắc-xin phòng COVID-19.
Phát biểu kết luận hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương đề nghị các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện quyết liệt chỉ đạo của trung ương, hướng dẫn của Bộ Y tế về phòng, chống dịch và tiêm vắc-xin phòng COVID-19. Để đạt được mục tiêu tiêm chủng, các địa phương có tỷ lệ tiêm thấp cần nghiên cứu việc thành lập các tổ công tác liên ngành nhằm tổ chức tiêm vắc-xin an toàn, hiệu quả; tăng cường công tác truyền thông về lợi ích, hiệu quả của vắc-xin. Các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế cần tăng cường hơn nữa việc hướng dẫn, đôn đốc, hỗ trợ các địa phương trong công tác tiêm chủng; vận hành hiệu quả phần mềm quản lý tiêm chủng.

Thứ trưởng Bộ Y tế cũng đề nghị các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn… vào cuộc tích cực hơn nữa trong chỉ đạo, tuyên truyền, vận động người dân tiêm vắc-xin phòng COVID-19; đẩy nhanh tiến độ tiêm trên địa bàn.

Đối với dịch bệnh đậu mùa khỉ, các địa phương chỉ đạo, phổ biến hướng dẫn việc tổ chức giám sát trên địa bàn. Một số bệnh truyền nhiễm khác vẫn đang lưu hành, do đó, các địa phương cần chủ động phòng, chống không để dịch bệnh bùng phát.

Trưởng Hoa

Theo SKĐS - 17-08-2022, Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện các biến thể phụ mới của biến thể Omicron như BA.4, BA.5, BA.2.75, BA.2.12.1 với khả năng lây nhanh. Trong tuần qua, cả nước ghi nhận trung bình 2.000 ca mắc mới mỗi ngày...

Bộ Y tế cho biết, tình hình dịch COVID-19 đang có chiều hướng gia tăng số ca mắc trên thế giới và tại Việt Nam, theo thống kê, trong 7 ngày qua, cả nước có 14.490 ca mắc COVID-19 mới, trong đó ngày đỉnh điểm số ca mắc lên đến gần 3.000, cao nhất trong hơn 3 tháng qua ở nước ta. Cùng đó, số bệnh nhân nặng cũng gia tăng theo, hiện trung bình khoảng 100 trường hợp đang điều trị.

Omecron 4


Thông tin từ Bộ Y tế, tại các tỉnh phía Nam các biến thể phụ BA.4, BA.5 đã bắt đầu chiếm ưu thế. Biến thể này đã ghi nhận tại TP HCM, Cần Thơ, Bình Dương, Tiền Giang, Bến Tre... và một số tỉnh, thành khác ở phía Bắc như Hải Dương, Thái Bình, Cao Bằng và Nghệ An...

Tại TP HCM thông qua khảo sát tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP HCM trong tuần cuối tháng 7 cho thấy, số ca nhiễm biến thể BA.5 chiếm ưu thế với 80% tổng số ca bệnh. Các biến thể khác như BA.2, BA.4, BA.2.12.1 chiếm tỷ lệ nhỏ.

Trước đó, đại diện Viện Pasteur TP HCM cũng cho biết, trong số hơn 30 mẫu được làm giải trình tự gen thì biến thể phụ BA.2 chiếm khoảng 30%, còn lại là BA.4, BA.5, đồng thời phát hiện thêm cả biến thể phụ BA.2.12.1. "Biến thể BA.2.12.1 cũng có khả năng lẩn tránh miễn dịch nhưng ít hơn BA.4, BA.5"- PGS.TS Nguyễn Vũ Thượng - Phó Viện trưởng Viện Pasteur TP HCM cho biết.

Theo chuyên gia, hiện nay biến thể phụ BA.4, BA.5 đang dần chiếm tỷ trọng cao cùng với biến thể phụ BA.2 . Theo y văn thế giới, biến thể phụ BA.4, BA.5 đều có khả năng lẩn tránh miễn dịch.

Việc tăng tỷ lệ nhiễm BA.2.12.1, BA.4 và BA.5 đi kèm với tăng mắc mới. Ở một số quốc gia, sự gia tăng ca bệnh cũng dẫn đến sự gia tăng số ca nhập viện, nhập ICU và tử vong. BA.4 và BA.5 có khả năng lẩn tránh miễn dịch tốt hơn so với biến thể gốc của Omicron.

BA.4/BA.5 có hiệu giá kháng thể trung hòa thấp hơn khoảng 7,5 lần so với BA.1. BA.4/BA.5 có khả năng kháng với kháng thể vaccine cao gấp 3-4 lần so với các biến thể cũ của Omicron. BA.2.12.1 tăng 1.8 lần khả năng kháng với kháng thể tạo ra từ vaccine so với BA.2.

Mới đây nhất, Cục Y tế dự phòng cho biết, biến thể BA.2.75 cũng đã xâm nhập vào Việt Nam. Mặc dù vẫn chưa chắc chắn về mức độ lây nhiễm, tỉ lệ nhập viện hoặc khả năng né miễn dịch, các chuyên gia vẫn gióng lên hồi chuông cảnh báo về độc lực của biến thể này.

Biến thể BA.2.75 được phát hiện đầu tiên tại Ấn Độ vào tháng Năm và từ đó đã lan rộng ra 16 quốc gia. Theo một nghiên cứu từ Đại học Bang Arkansas của Mỹ, tỷ lệ lây nhiễm do biến thể mới này ở Ấn Độ trong 3 tháng qua cao hơn 3,2 lần so với BA.5.

Các nhà nghiên cứu quốc tế cũng cho biết dòng phụ mới này của Omicron có nhiều đột biến hơn BA.5, do đó, mức độ né tránh vaccine cũng sẽ cao hơn.
TS Eric Topol - người sáng lập và giám đốc Viện nghiên cứu Scripps ở Mỹ - giải thích rằng, biến thể BA.2.75 sở hữu thêm 8 đột biến so với chủng BA.5, do đó có thể né miễn dịch mạnh hơn.

Tom Peacock - nhà virus học tại Khoa Các bệnh truyền nhiễm, Đại học Hoàng gia London - cũng cho hay, protein gai trong BA.2.75 có một số đột biến chính, đáng chú ý là khả năng tăng trưởng nhanh và lây lan rộng rãi theo địa lý.

TT-GDSK

Theo SKĐS - sáng 16/8, Bộ Y tế cho biết thời gian gần đây số ca mắc mới tăng, ca nặng tăng; Bộ Y tế tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch, nhất là theo dõi chặt sự xuất hiện của các biến thể mới của COVID-19;
Thống kê từ Bộ Y tế ngày 15/8, ca COVID-19 mới tăng lên 1.695, tăng hơn 200 trường hợp so với ngày trước đó. Trong ngày số bệnh nhân khỏi gấp gần 6 lần ca mới; bệnh nhân nặng cũng tăng lên.

LAY MAU
Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 11.367.479 ca nhiễm, đứng thứ 12/227 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 112/227 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 114.603 ca nhiễm).
Đến nay tổng số người mắc COVID-19 ở nước đã đã khỏi là: 10.029.826 ca; Trong số bệnh nhân đang theo dõi, điều trị có 124 trường hợp thở ô xy là 124 ca, gôm: Thở ô xy qua mặt nạ: 111 ca; Thở ô xy dòng cao HFNC: 4 ca; Thở máy không xâm lấn: 2 ca; Thở máy xâm lấn: 7 ca. Thống kê gần đây cho thấy, số ca nặng gia tăng so với trước đó có thời điểm chỉ hơn 20 trường hợp đang điều trị, liên tục các ngày qua, bệnh nhân nặng đang điều trị thường trên 100 ca/ ngày;
Trong tuần qua, cả nước ghi nhận trung bình 2000 ca mắc mới mỗi ngày, số ca mắc đang có xu hướng gia tăng trở lại và có thể gây quá tải hệ thống y tế, nhất là trong bối cảnh nguy cơ xảy ra "dịch chồng dịch" do một số bệnh dịch lưu hành khác (cúm A, sốt xuất huyết, tay chân miệng...) đang trong mùa cao điểm và khả năng xâm nhập của các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới nổi (đậu mùa khỉ, viêm gan cấp tính...).
Vì vậy cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch, nhất là sự xuất hiện của các biến thể mới của COVID-19, thường xuyên đánh giá, phân tích tình hình và các yếu tố nguy cơ; chủ động xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó và triển khai đáp ứng với mọi tình huống có thể xảy ra của dịch; kịp thời cập nhật, bổ sung các hướng dẫn chuyên môn và hỗ trợ địa phương trong phòng chống dịch COVID-19.
Tiếp tục tăng cường chỉ đạo đẩy nhanh hơn nữa tiến độ tiêm vaccine phòng COVID-19 bảo đảm an toàn, khoa học, hiệu quả; chỉ đạo đẩy mạnh việc vận động, khuyến khích người dân tham gia tiêm vaccine đầy đủ, đúng lịch.
Tiếp tục tổ chức tốt việc phân luồng, thu dung, cấp cứu, cách ly và điều trị kịp thời các trường hợp mắc bệnh, đặc biệt chú ý đối với nhóm nguy cơ cao, hạn chế thấp nhất các ca tử vong; thực hiện nghiêm việc kiểm soát nhiễm khuẩn, không để lây nhiễm chéo trong bệnh viện; tăng cường chỉ đạo tuyến, hỗ trợ tuyến dưới.
Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương bảo đảm đủ thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế, nhân lực cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 và phục vụ khám, chữa bệnh cho người dân; tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn việc triển khai nghiên cứu, sản xuất vaccine, sinh phẩm, thuốc, vật tư, trang thiết bị.

TT-GDSK

SKĐS, Sáng 13/8 Theo thông tin từ Bộ Y tế số ca COVID-19 gia tăng trong thời gian gần đây, đã 4 ngày liên tiếp trên mốc 2.000 ca/ ngày; số bệnh nhân nặng cũng gia tăng; Nhiều tỉnh đã ghi nhận các biến thể mới có khả năng lây lan nhanh hơn.
Chỉ tỉnh riêng ngày 12/8 có 2.192 ca COVID-19 mới, 01 trường hợp tại Quảng Ninh tử vong.

C COVID 19 năng9

Tình hình dịch COVID-19 trong nước

Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 11.362.540 ca nhiễm, đứng thứ 12/227quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 112/227 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 114.562 ca nhiễm).

Đến nay tổng số người mắc COVID-19 đã khỏi ở nước ta là: 10.009.451 ca; trong số bệnh nhân đang theo dõi, điều có 116 trường hợp thở ô xy trong đó: Thở ô xy qua mặt nạ: 86 ca; Thở ô xy dòng cao HFNC: 10 ca; Thở máy không xâm lấn: 2 ca; Thở máy xâm lấn: 18 ca. Như vậy số bệnh nhân nặng tăng thêm 51 trường hợp so với ngày trước đó.
Bộ Y tế tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch, nhất là sự xuất hiện của các biến thể mới của COVID-19, thường xuyên đánh giá, phân tích tình hình và các yếu tố nguy cơ; chủ động xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó và triển khai đáp ứng với mọi tình huống có thể xảy ra của dịch; kịp thời cập nhật, bổ sung các hướng dẫn chuyên môn và hỗ trợ địa phương trong phòng chống dịch COVID-19.
Các địa phương tiếp tục tăng cường chỉ đạo đẩy nhanh hơn nữa tiến độ tiêm vaccine phòng COVID-19 bảo đảm an toàn, khoa học, hiệu quả; chỉ đạo đẩy mạnh việc vận động, khuyến khích người dân tham gia tiêm vaccine đầy đủ, đúng lịch.
Ban Chỉ đạo quốc gia: Địa phương phải đánh giá nghiêm túc tình hình COVID-19
Theo kết luận Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 tại phiên họp thứ 16, dự báo tình hình dịch bệnh trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự đoán với sự xuất hiện của nhiều biến chủng mới. Dịch đang bùng phát trở lại tại nhiều nước phát triển, có nền y tế hiện đại.
Tại Việt Nam, nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới có khả năng lây lan nhanh hơn. Một số địa phương tiêm vaccine COVID-19 chưa đảm bảo tiến độ đề ra theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia, cùng với đó là nguy cơ suy giảm khả năng bảo vệ của vaccine theo thời gian.
Do vậy, các ngành, các cấp, địa phương cần tập trung nắm chắc tình hình, diễn biến dịch bệnh; đánh giá nghiêm túc, thực tế, khách quan về tình hình dịch bệnh; không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, thỏa mãn với những kết quả bước đầu đạt được.
Đồng thời chủ động chỉ đạo triển khai các phương án phòng, chống dịch theo thẩm quyền được giao và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công theo quy chế làm việc của Chính phủ.
Trong một tháng qua, Kiên Giang có 338 ca mắc COVID -19 mới, trong đó, có 29 ca nhiễm biến chủng BA.2, 6 trường hợp nhiễm biến thể BA.5.
Theo báo cáo ngành y tế Kiên Giang, những địa phương ghi nhận nhiều ca mắc COVID-19 nhiễm biến thể BA.5 và BA.2 là huyện An Biên, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Kiên Hải và TP Phú Quốc.
Hầu hết các trường hợp mắc COVID-19 gần đây đều ở thể nhẹ, ít triệu chứng nên các bệnh nhận được quản lý, điều trị tại nhà.
Trước đó sáng 2/8, Sở Y tế tỉnh Bình Dương phát đi thông báo khẩn về kết quả giải trình tự gen virus SASR-CoV-2 của Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh khẳng định vừa phát hiện hai trường hợp nhiễm dòng phụ BA.5 trong cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Trước đó, ngày 30/7, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Tiền Giang cho biết: Đơn vị vừa ghi nhận ca nhiễm biến chủng BA.5 của Omicron ở Khu phố 2, Phường 5, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Đây là ca nhiễm đầu tiên thuộc chủng BA.5 trên địa bàn tỉnh vừa được ghi nhận.
Tại TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ cũng đã phát hiện các ca bệnh COVID-19 nhiễm biến thể BA.4, BA.5.

Tình hình dịch COVID-19 thế giới vẫn diễn biến phức tạp

Tổng số ca mắc COVID-19 trên thế giới hơn 593,4 triệu ca, trên 6,4 triệu ca tử vong.
Theo Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hàn Quốc (KDCA), nước này đã ghi nhận thêm 128.714 ca mắc mới COVID-19 (trong đó có 464 ca nhập cảnh), nâng tổng số ca bệnh lên 21.111.840 ca. Số ca mắc mới nghi nhận ngày 12/8 giảm so với 137.241 ca ghi nhận ngày 11/8, song vẫn cao hơn so với 112.858 ca ghi nhận 1 tuần trước đó. Số ca bệnh thể nặng tăng từ 35 ca một ngày trước đó lên 453 ca, mức cao nhất kể từ ngày 24/5.
Ngày 10/8, Nhật Bản ghi nhận 250.403 ca mắc mới COVID-19, mức cao kỷ lục theo ngày, trong bối cảnh có nhiều quan ngại về nguy cơ quá tải đối với hệ thống y tế do bùng phát làn sóng dịch mới. Tổng số ca mắc mới trong ngày 10/8 thậm chí còn vượt mức kỷ lục 249.830 ca ghi nhận ngày 3/8.
Đã có 20 trong tổng số 47 tỉnh thành ghi nhận số ca mắc mới theo ngày cao chưa từng có, trong đó thủ đô Tokyo tới 34.243 ca; 2 tỉnh Osaka và Aichi lần lượt là 23.730 ca và 18.862 ca.
Bộ Y tế Nhật Bản cũng cho biết trên cả nước đã có thêm 251 ca tử vong, số ca COVID-19 phải nhập viện với các triệu chứng nghiêm trọng tăng 16 ca so với ngày 9/10 lên 597 ca, song vẫn thấp hơn nhiều so với mức đỉnh ghi nhận trong mùa Hè vừa qua (hơn 2.000 ca bệnh nặng trong nhiều tuần).

TT-GDSK

Sáng ngày 9/8, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Nam tổ chức tập huấn hướng dẫn triển khai tiêm vắc xin IPV2 trong chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR). BS.CKI Huỳnh Công Quang - Phó giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Nam cùng đại diện các cán bộ chuyên trách làm công tác tiêm chủng thuộc các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh tham dự.

e24f46e7c4a601f858b716

Toàn cảnh buổi tập huấn hướng dẫn triển khai tiêm vắc xin IPV2 trong chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR)

Tại buổi tập huấn, các báo cáo viên đã báo cáo tình hình giám sát bệnh Bại liệt, quá trình thực hiện tiêm chủng vắc xin IPV mũi 1 năm 2018 - 2022; hướng dẫn triển khai tiêm vắc xin IPV mũi 2 với mục tiêu trẻ dưới 1 tuổi trên địa bàn tỉnh được tiêm mũi 2 vắc xin IPV trong chương trình TCMR đạt tỷ lệ trên 90%. Theo đó, từ tháng 8/2022, 100% các trạm y tế xã/phường thực hiện tiêm mũi 2 cho trẻ từ 9 đến dưới 1 tuổi đã tiêm mũi 1; công tác tiêm chủng phải đảm bảo an toàn theo các quy định và hướng dẫn của Bộ Y tế như: đảm bảo quy trình tiêm chủng, theo dõi sau tiêm 30 phút, hướng dẫn gia đình theo dõi tại nhà trong vòng 1 đến 2 ngày đầu sau tiêm chủng, xử lý các trường hợp phản ứng sau tiêm…; Dự kiến, sẽ có 9.230 liều IPV được phân bổ về cho 18 trung tâm y tế thuộc 18 huyện/thị xã/thành phố trên địa bàn tỉnh để thực hiện tiêm cho trẻ. 

Để đảm bảo miễn dịch đầy đủ để phòng bệnh bại liệt ngoài việc uống đủ liều vắc xin bại liệt OPV trẻ cần được tiêm vắc xin bại liệt IPV. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo các bậc cha mẹ ngoài việc đưa trẻ đến tiêm vắc xin bại liệt uống (OPV) đủ 03 liều thì cần sử dụng tiêm liều IPV tiêm trong lịch tiêm chủng thường xuyên, hoặc ở các đợt chiến dịch tiêm bổ sung để phòng bệnh cho trẻ./.

Thùy An - Viết Thạnh

 

 

1. CÁC LOẠI VI RÚT VIÊM GAN VÀ ĐƯỜNG LÂY

Cho tới nay ít nhất đã có 6 loại virut viêm gan (Hepatitis virus) được ghi nhận và ký hiệu là: HAV – virut viêm gan A;  HBV –  virut viêm gan B; HCV- virut viêm gan C ;  HDV – virut viêm gan D (còn gọi virut delta) ;  HEV – virut viêm gan E và  HGV – virut viêm gan G.

1.1. Virut viêm gan A (HAV)

HAV thuộc họ Picornaviridae, có acid nhân là RNA. Phần lớn các trường hợp nhiễm HAV không có triệu chứng lâm sàng. Bệnh viêm gan A thường diễn biến lành tính, khỏi hoàn toàn, không chuyển thành mạn tính, không có tình trạng người mang virut mạn tính.Tuy nhiên có thể vẫn bị tái nhiễm HAV, gây viêm gan A tái nhiễm.

Có thể phát hiện người nhiễm HAV bằng xét nghiệm tìm kháng thể Anti-HAV. Kháng thể Anti-HAV týp IgM có ngay trong giai đoạn khởi phát và toàn phát của bệnh, hiệu giá kháng thể cao nhất ở huyết thanh 1-3 tháng, giảm dần và hết sau 6-12 tháng.

1.1.2. Viêm gan vi rút B (HBV)

HBV thuộc họ Hepadnavirut là những virut có kích thước nhỏ. Đây là virut viêm gan duy nhất có axit nhân là DNA. HBV có cấu trúc đặc biệt nhỏ gọn, có nhiều gen: S, C, P và X cho nên có khả năng tổng hợp được nhiều loại Protein quan trọng của virut.

HBV có một số kháng nguyên (KN) quan trọng là:

–  HBsAg (Hepatitis B surface Antigen): là KN bề mặt của HBV. Đây là KN xuất hiện sớm nhất trong huyết thanh sau khi nhiễm HBV. Sự có mặt của HBsAg trong huyết thanh phản ánh tình trạng một người đã bị nhiễm HBV. Trong viêm gan virut B cấp HBsAg thường đạt đỉnh cao khi có các triệu trứng lâm sàng rồi biến mất sau 2- 3 tháng. Nếu sau 6 tháng kể từ khi nhiễm mà HBsAg vẫn còn tồn tại trong huyết thanh được coi như mang kháng nguyên mạn tính.

–  HBeAg (Hepatitis B e Antigen): là KN xuất hiện sớm thứ hai tiếp sau hoặc đồng thời với HBsAg. Sự có mặt của HBeAg cùng với HBV-DNA trong huyết thanh phản ánh tình trạng đang nhân lên của virut và bệnh đang ở thời kỳ lây lan mạnh.

–  HBcAg (Hepatitis B core Antigen): là KN lõi của HBV, nằm riêng biệt trên bề mặt nucleocapsid. HBcAg không tồn tại ở dạng tự do mà tập trung chủ yếu trong tế bào gan. Trong huyết thanh HBcAg bị bao bọc bởi HBsAg nên không tìm thấy HBcAg huyết thanh.

– DNA Polymerase: nằm trong nucleocapsid nhân của HBV. Nó có thể điều khiển sự sao chép và thay đổi của HBV-DNA. Phát hiện HBV-DNA trong huyết thanh bằng phản ứng khuếch đại gen PCR là biện pháp có giá trị nhất đánh giá tình trạng nhân lên của virut.

Sau khi nhiễm HBV, cơ thể sinh ra các kháng thể tương ứng là:

+  Anti – HBs (Hepatitis B surface Antibody): là kháng thể kháng KN bề mặt của HBV. Anti – HBs thường xuất hiện trong huyết thanh sau khi HBsAg biến mất. Sự có mặt của Anti – HBs cùng với sự mất đi của HBsAg phản ánh quá trình hồi phục của cơ thể nhiễm virut, cơ thể đã loại trừ được HBV và bệnh nhân đã có đáp ứng miễn dịch đầy đủ đối với bệnh. Cũng có khi HBsAg đã trở về (-) nhưng Anti – HBs chưa xuất hiện, khoảng thời gian này được gọi là “thời kỳ cửa sổ”.

Anti – HBe (Hepatitis B e Antibody): là kháng thể xuất hiện thứ 2 trong huyết thanh, thường thấy vào giai đoạn cấp tính của bệnh và kéo dài nhiều tháng, nhiều năm. Sự xuất hiện của Anti – HBe là 1 dấu hiệu chứng tỏ sự nhân lên của virut đã bị khống chế, người bệnh đã bắt đầu hình thành đáp ứng miễn dịch (bước vào giai đoạn chuyển đảo huyết thanh – Seroconversion).    +  Anti – HBc(Hepatitis B core Antibody): là kháng thể có mặt sớm nhất trong đáp ứng miễn dịch của cơ thể sau khi nhiễm HBV, trong đó Anti – HBc – IgM (+) có giá trị chẩn đoán viêm gan virut B cấp, còn khi Anti -HBc -IgG (+) thường là giai đoạn mạn của bệnh.

1.1.3. Virut viêm gan C (HCV)

HCV có sự đa dạng về gen (tương tự HIV): ít nhất có 6 kiểu gen  và 50 phân typ dã được xác định. Nhờ đó virut có khả năng né tránh đáp ứng miễn dịch của vật chủ dẫn đến tỷ lệ nhiễm HCV mạn cao (>80%)

Khoảng 75% số trường hợp sau khi nhiễm HCV không có biểu hiện lâm sàng. Tỷ lệ chuyển từ viêm gan C cấp thành viêm gan C mạn tính khá cao (khoảng 50 – 70%).

1.1.4. Virut viêm gan D (HDV)

HDV muốn nhân lên phải có HBsAg để làm vỏ mới thành được virut hoàn chỉnh vì chỉ có phần nhân ARN, còn phần vỏ bọc là HBsAg của HBV. Do vậy HDV không thể độc lập gây bệnh được. Có thể HDV cùng xâm nhập vào cơ thể người bệnh một lúc với HBV gọi là đồng nhiễm (Coinfection) hoặc nhiễm HDV trên nền một bệnh nhân nhiễm HBV gọi là bội nhiễm (Surinfection). Khi đồng nhiễm HDV và HBV dễ có nguy cơ thành viêm gan ác tính  cao. Khi bội nhiễm HDV ở người nhiễm HBV sẽ có nguy cơ thành viêm gan mạn tính.

 

1.1.5. Virut viêm gan E (HEV)

Virut được phát hiện trong phân, mật ở những người nhiễm bệnh và bài tiết ra ngoài theo phân vào cuối thời kỳ ủ bệnh. Ngoài ra, còn có thể phát hiện được HEV trong huyết thanh hoặc trong phân bằng phương pháp PCR (phát hiện Anti – HAV).

Bệnh do VRVG E gây ra cũng thường diễn biến lành tính và khỏi hoàn toàn.

1.1.6. Virut viêm gan G (HGV)

Là một thành viên thuộc họ Flaviviridae, trong thành phần có 25% sự đồng nhất với HCV nhưng vai trò gây bệnh chưa rõ ràng. Thường trên 70% trường hợp nhiễm HGV không có biểu hiện lâm sàng.

1.2. Một số đặc điểm dịch tễ học

1.2.1. Nguồn bệnh

Hầu như chỉ là bệnh nhân và người mang virut (carrier). Một số virut viêm gan tìm thấy ở khỉ, tinh tinh nhưng chưa có bằng chứng lây nhiễm sang người.

1.2.2. Sức thụ bệnh

Mọi lứa tuổi và giói đều có thể bị bệnh, tuy nhiên:

– Đối với virut viêm gan A và E : Lứa tuổi mắc nhiều là trẻ em và thanh thiếu niên, ở người lớn đa số miễn dịch bền vững nhưng không có miễn dịch chéo.

– Đối với virut viêm gan B, D và C: thường đa số gặp ở người lớn, một số trẻ em mắc là do truyền từ mẹ sang con. Đáp ứng miễn dịch với virut phụ thuộc vào từng cá thể. Một số trường hợp đáp ứng miễn dịch bảo vệ kém do vậy virut tồn tại trong cơ thể suốt đời.

– Nhân viên y tế thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân, với máu và các chế phẩm máu… thường dễ nhiễm virut viêm gan. Hiện nay, bệnh viêm gan virut được xếp vào nhóm bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm .

2. GIẢI PHẪU BỆNH VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH

2.1. Giải phẫu bệnh

Hình ảnh đại thể của gan khi soi ổ bụng thấy “gan to, đỏ”. Những trường hợp diễn biến kéo dài thì màu đỏ sẫm sẽ dần dần nhạt màu thành “gan to, trắng”, hoặc vàng nhạt. Các tế bào gan bị trương to và sau đó bị hoại tử: Lúc đầu trương lên, sau đó là thoái hoá rỗ hoặc đông đặc bào tương và hoại tử tế bào. Nghiên cứu những biến đổi tổ chức học theo thời gian có thể thấy qua các thời kỳ sau:

–  Ở tuần 1 đặc trưng là tăng sinh các tế bào Kupffer và hoại tử tế bào gan.

– Sang tuần thứ 2 hoại tử tế bào gan phát triển mạnh và tạo thành các ổ hoại tử tế bào và xuất hiện tăng sinh tổ chức liên kết.

– Trong tuần thứ 3 hoại tử tế bào gan đến mức tối đa nhưng bắt đầu có tái tạo với dấu hiệu tăng sự phân chia các Mitochondria tế bào gan.

– Thời kỳ tiếp theo quá trình hoại tử từng bước giảm dần cùng với sự tăng sinh tế bào gan tái tạo. Tuy vậy những ổ hoại tử rải rác có thể còn kéo dài tuỳ theo thể bệnh.

Những trường hợp vàng da ứ mật thường thấy xuất hiện những cục nghẽn trong các vi quản mật và giãn các vi quản mật. Có hiện tượng viêm thâm nhiễm ra xung quanh đường mật.

2.2. Cơ chế bệnh sinh

Quá trình sinh bệnh có thể chia ra các thời kỳ sau:

– Thời kỳ thâm nhập của vi rút: với vi rút A và E thâm nhập theo đường tiêu hoá. Vi rút B, C, D thâm nhập theo đường máu.

– Thời kỳ nhân lên của vi rút: tại các tổ chức của đường tiêu hoá và sau đó là các hạch lympho mạc treo, vi rút được nhân lên. Do tác động của vi rút đến các tổ chức này làm tăng tính thấm của tế bào, thoái hoá – hoại tử tổ chức và tạo ra những biến đổi không đặc hiệu, đặc biệt là ở các hạch lympho (trong 2 thời kỳ trên chưa có biểu hiện triệu chứng bệnh lý).

– Thời kỳ nhiễm vi rút huyết tiên phát (tương ứng với thời kỳ khởi phát trên lâm sàng): vi rút từ hạch lympho vào máu gây ra phản ứng của cơ thể biểu hiện bằng sốt.

– Thời kỳ lan tràn tổ chức: vi rút từ máu thâm nhập vào tất cả các cơ quan mà chủ yếu là gan. Quan trọng nhất trong thời kỳ này là vi rút gây tổn thương gan. Tổn thương gan biểu hiện ở 3 mặt: Phân huỷ tế bào nhu mô gan, tổn thương tế bào trung diệp và ứ tắc dịch mật. Trên lâm sàng, thời kỳ này tương ứng với thời kỳ toàn phát của bệnh.

– Thời kỳ nhiễm vi rút huyết thứ phát: vi rút từ gan trở lại máu gây nên những đợt bột phát, hiện tượng nhiễm độc dị ứng, phát sinh biến chứng và tái phát.

3. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CHUNG CỦA BỆNH VIÊM GAN VI RÚT CẤP THỂ THÔNG THƯỜNG ĐIỂN HÌNH

3.1. Thời kỳ nung bệnh

Chưa có triệu chứng lâm sàng, phụ thuộc vào loại virut viêm gan:

– Viêm gan vi rút A: thường 1 – 6 tuần

– Viêm gan vi rút B: thường 1 – 6 tháng

3.2. Thời kỳ khởi phát (còn gọi là thời kỳ trước vàng da)

Thời kỳ này thường kéo dài khoảng 1 tuần. Bệnh nhân thường có sốt nhẹ hoặc vừa vài ngày, đau tức vùng hạ sườn phải. Nổi bật là tình trạng không tương xứng giữa mức độ nhiễm khuẩn với nhiễm độc: tuy sốt nhẹ, ngắn ngày, có khi không sốt nhưng bệnh nhân cảm giác thấy mệt nhiều, không muốn đi lại, không muốn làm kể cả các việc nhẹ…

Đa số bệnh nhân ngay thời kỳ này đã thấy nước tiểu vàng thẫm; xét nghiệm nước tiểu xuất hiện Urobilinogen (+).

3.3. Thời kỳ toàn phát (thời kỳ vàng da)

Vàng da thường xuất hiện sau khi hết sốt. Ở mức độ nhẹ và vừa bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hẳn lên, ăn được, hết đau khớp… Ngược lại, với những bệnh nhân mức độ nặng bước vào thời kỳ vàng da các triệu chứng bệnh phát triển và nặng hẳn lên: gan to, đau, một số trường hợp có lách to, chán ăn, mệt mỏi, rối loạn tiêu hoá… Xét nghiệm thấy Transaminase tăng cao, đặc biệt là SGPT (hay ALT), Bilirubin máu toàn phần tăng, trong đó Bilirubin trực tiếp tăng nhiều hơn Bilirrubin gián tiếp, Urobilinogen nước tiểu đang từ (+) chuyển thành (-) tính.

Biểu hiện vàng da thường đạt mức tối đa trong vòng 2-5 ngày và kéo dài từ  2 – 4 tuần. Trong thời kỳ này các triệu chứng về lâm sàng và cận lâm sàng tăng lên tới mức tối đa. Ở những bệnh nhân vàng da nặng thường có biểu hiện phân bạc màu, nước tiểu ít và sẫm màu như nước vối đặc, bệnh nhân rất ngứa nên có nhiều vết gãi trên da.

3.4. Giai đoạn hồi phục

Thường bắt đầu bằng hiện tượng đa niệu (hay cơn đa niệu). Các triệu chứng lâm sàng cùng với các rối loạn sinh hoá bắt đầu giảm.

Bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, các triệu chứng của bệnh mất dần, ăn ngủ được, nước tiểu trong, gan thu dần về bình thường, các xét nghiệm Transaminase, Bilirubin và các chỉ tiêu sinh hoá khác dần dần trở về bình thường.

20190901 150742 620522 viem gan b.max 800x800

4. CHẨN ĐOÁN

4.1. Chẩn đoán xác định viêm gan vi rút cấp

4.1.1. Căn cứ lâm sàng

– Bệnh thường diễn biến qua 2 thời kỳ rõ rệt: thời kỳ khởi phát thường có sốt và thời kỳ vàng da sau khi hết sốt.

– Bệnh có tính chất không tương xứng giữa mức độ nhiễm khuẩn với nhiễm độc: sốt nhẹ, sốt ngắn ngày nhưng rất mệt mỏi, mệt kéo dài.

– Các triệu chứng khác: gan to, mềm, đau tức vùng gan, phân lỏng…

4.1.2. Căn cứ xét nghiệm

– Transaminase (SGOT, SGPT) tăng cao, trong đó SGPT thường cao hơn SGOT, chỉ số De Ritis < 1.

–  Bilirubin máu tăng (Bilirubin trực tiếp tăng nhiều hơn Bilirrubin gián tiếp).

– Xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên: có thể tìm kháng nguyên hoặc kháng thể (markers) của các virut viêm gan (HBsAg, anti HCV, anti -HBc IgM….

4.1.3. Căn cứ tiền sử, dịch tễ

– Chưa bị vàng da, vàng mắt bao giờ

– Xác định yếu tố liên quan (tiêm truyền, phẫu thuật, người xung quanh bị bệnh tương tự, tiền sử nghiện rượu hoặc dùng các thuốc, hóa chất có hại cho gan…)

4.2.  Chẩn đoán phân biệt

Tuỳ theo từng thời kỳ của bệnh viêm gan vi rút mà cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác như:

– Thời kỳ khởi phát: cần chẩn đoán phân biệt với cúm hoặc nhiễm vi rút đường hô hấp cấp. Ở những bệnh nhân có ỉa lỏng, đau vùng thượng vị cần chẩn đoán phân biệt với nhiễm khuẩn, nhiễm độc ăn uống hoặc viêm dạ dày cấp…

– Giai đoạn vàng da: cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh có vàng da khác như vàng da do huyết tán trong lòng mạch, vàng da do nhiễm độc hoá chất hoặc do thuốc, bệnh Leptospirosis v.v..

5. ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG BỆNH VIÊM GAN VI RÚT CẤP

5.1. Nguyên tắc chung

– Nghỉ ngơi hợp lý tại giường bệnh trong thời kỳ toàn phát, sau đó hoạt động nhẹ nhàng.

– Sử dụng các thuốc điều trị triệu chứng khi cần: thuốc giải độc và bảo vệ tế bào gan; lợi mật, truyền dịch, lợi tiểu khi có vàng da đậm; thuốc làm tăng cường sức đề kháng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể…

– Chế độ ăn giàu đạm, đường, vitamin; giảm mỡ động vật đặc biệt là các món xào, rán. Tăng cường ăn hoa quả tươi, sữa chua.

– Kiêng rượu, bia và hạn chế sử dụng các thuốc, hoá chất gây độc cho gan.

 

5.2. Một số thuốc điều trị

– Thuốc có tác dụng giải độc, bảo vệ tế bào gan: thuốc tổng hợp BDD (Biphenyl Dimetyl Dicarboxylate, có nhiều biệt dược: Grocel, Fortec, Nissel, Omitan…); thuốc có nguồn gốc acid amin (Eganin, Arginin, Ornicetin…); thuốc có nguồn gốc thảo mộc (cây cà gai leo, cây chó đẻ răng cưa…)

– Thuốc lợi tiểu: Aldactone, Spironolacton…. Có thể dùng các thuốc lợi tiểu nguồn gốc thực vật như: rễ cỏ sước, bông mã đề, râu ngô…

Thuốc nhuận mật được sử dụng khi có vàng da: các thuốc thường được sử dụng là các thuốc lợi mật có Magie, Sorbitol hoặc các thuốc lợi mật có nguồn gốc thực vật như cây nhân trần, bồ bồ, dành dành, actiso…

– Thuốc làm tăng sức đề kháng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể: Thymomodium (Vitro, Immurong, Benkis…)

– Một số thuốc được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt:

+ Corticoid được ứng dụng cho những trường hợp viêm gan ác tính hoặc những trường hợp vàng da ứ mật kéo dài. Tuy nhiên cần cân nhắc kỹ vì dùng Corticoid kéo dài, tạo điều kiện cho virut phát triển mạnh hơn.

+Thuốc ức chế vi rút

Lamivudin, Ribavirin, Adefovir, Famciclovir, Entecavir, Tenofovir… được dùng cho bệnh nhân viêm gan virut B và C. Để tăng hiệu quả điều trị thuốc chống virut thường được dùng kết hợp với Interferon-alpha… Hiện tại, các thuốc này ít được chỉ định trong viêm gan virut cấp mà thường dùng phổ biến trong viêm gan virut B và C mạn tính.

5.3. Dự phòng

5.3.1. Những biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu

– Đối với vi rút viêm gan lây theo đường tiêu hoá (HAV và HEV) cần phải giữ vệ sinh thực phẩm và nước uống. Quản lý và khử trùng phân của bệnh nhân để tránh lây lan.

– Đối với các vi rút viêm gan lây theo đường máu (HBV, HCV, HDV) cần phải đảm bảo khử trùng tốt các dụng cụ tiêm truyền, phẫu thuật. Sử dụng máu và các chế phẩm của máu cần được kiểm tra chặt chẽ để loại trừ các vi rút viêm gan. Virut viêm gan B có  thể lây truyền qua đường sinh dục do vậy  trong quan hệ tình dục cũng phải có dụng cụ bảo vệ như đối với HIV/AIDS.

5.3.2. Phòng bệnh đặc hiệu

– Đối với viêm gan A

Phòng bệnh khẩn cấp bằng Gammaglobulin miễn dịch, hiệu quả bảo vệ chỉ được 4-6 tháng. Ở nước ta, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã sản xuất thành công Vacxin phòng bệnh viêm gan A.

– Đối với viêm gan B

Vacxinviêm gan B đã được sử dụng khá rộng rãi và đã nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng ở nước ta.

Hiện nay có 3 loại Vacxin viêm gan B: Vacxin viêm gan B chế tạo từ huyết tương người nhiễm vi rút (hiện nay loại vác xin này tuy rẻ tiền nhưng ít sử dụng vì độ an toàn không cao); Vacxin viêm gan B tái tổ hợp AND và Vacxin viêm gan B tổng hợp chuỗi polypeptit. Vacxin được chỉ định cho trẻ em và những người có nguy cơ lây nhiễm.

Đối với viêm gan do các vi rút khác đang nghiên cứu sản xuất Vacxin.