TS.BS Trần Văn Kiệm
Thời gian qua, bằng sự đồng lòng của toàn dân cùng niềm tin và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam chúng ta đã có được thành công trong cuộc chiến chống lại dịch COVID-19. Tuy nhiên, dịch COVID -19 vẫn còn đang diễn biến phức tạp trên thế giới, nguy cơ vẫn còn đe dọa với chúng ta, nguy hiểm nhất là những trường hợp nhiễm covid-19 không triệu chứng.
Biểu hiện các triệu chứng lâm sàng chính của COVID-19 ngay từ đầu đã được xác định như sốt, ho, tức ngực, khó thở... nhưng đến nay nhiều nước kể cả tại Việt Nam đã có công bố về người nhiễm virus SARS-CoV-2 nhưng không có triệu chứng.
Người mang mầm bệnh không triệu chứng là gì?
Nói đến mang mầm bệnh không triệu chứng, người ta muốn ám chỉ mầm bệnh ở đây là vi sinh vật (virrus, vi khuẩn) gây bệnh. Người mang mầm bệnh không có triệu chứng, có nghĩa là người đang mang mầm bệnh trong cơ thể nhưng vẫn khỏe mạnh hoặc đã bị nhiễm mầm bệnh, nhưng không có dấu hiệu cũng như triệu chứng nào. Mặc dù không bị ảnh hưởng bởi chính mầm bệnh nhưng người mang mầm bệnh vẫn có thể truyền bệnh cho người khác hoặc phát triển các triệu chứng ở giai đoạn sau của bệnh. Vì vậy, đã từ lâu “người mang mầm bệnh không triệu chứng” đã được các nhà dịch tễ học bệnh truyền nhiễm rất quan tâm. Hay gặp nhất người lành mang mầm bệnh không triệu chứng như vi khuẩn (thương hàn, tả, lỵ, bạch hầu...), virus (cúm, HIV, SARS...). Những người mang mầm bệnh không triệu chứng này sẽ gieo rắc mầm bệnh ra môi trường, làm cho nhiều người bị lây nhiễm và mắc bệnh, thậm chí bùng phát thành dịch, đại dịch (dịch tả, dịch lỵ, dịch bạch hầu, dịch cúm A...). Do mang mầm bệnh không có triệu chứng nên bản thân người mang mầm bệnh cũng như những người xung quanh và cả cán bộ y tế cũng không thể nào nắm bắt được, chỉ trong trường hợp nghi ngờ mới tiến hành làm các xét nghiệm cần thiết mới hy vọng phát hiện được.
Phân loại người mang mầm bệnh không triệu chứng
Thứ nhất, trường hợp người mang mầm bệnh không triệu chứng là người đã bị vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể nhưng do cơ thể có sức đề kháng mạnh sẽ ức chế được sự phát triển của vi sinh vật (không cho chúng nhân lên) cho nên không thể gây bệnh nên không có triệu chứng lâm sàng. Hoặc do số lượng vi sinh vật xâm nhập cơ thể với số lượng ít chưa thể gây bệnh được nên không có triệu chứng nào xuất hiện. Với dạng này, mầm bệnh vẫn tồn tại trong cơ thể và chưa gây bệnh nhưng khi sức đề kháng của cơ thể vì một lý do nào đó suy giảm, vi sinh vật sẽ phát triển nhanh chóng và gây bệnh. Dạng người lành mang mầm bệnh không triệu chứng này hết sức nguy hiểm dù chưa mắc bệnh nhưng có thể đào thải ra môi trường bên ngoài làm cho nhiều người có thể phơi nhiễm, mắc bệnh và nguy cơ thành dịch, thậm chí đại dịch.
Thứ hai, trường hợp người mang mầm bệnh không triệu chứng nữa là những bệnh nhân mầm bệnh đã xâm nhập cơ thể, chúng đang ở giai đoạn thích nghi với điều kiện mới để nhân lên và gây bệnh, gọi là thời kỳ ủ bệnh. Ở giai đoạn này hầu hết các bệnh nhiễm trùng đều chưa có triệu chứng lâm sàng nào. Giai đoạn này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độc lực của vi sinh vật gây bệnh, số lượng vi sinh vật xâm nhập, sức đề kháng của cơ thể... Tương tự, trong trưởng hợp này cả người bệnh, người xung quanh và cán bộ y tế cũng không thể biết được nên điều nguy hiểm nhất là mầm bệnh rất dễ lây lan ra xung quanh, lây cho những người giao tiếp, đặc biệt là những người tiếp xúc gần.
Ngoài ra, còn có một số trường hợp người mang mầm bệnh không triệu chứng nữa là người mang vi sinh vật trên da, tay, chân, quần áo... mà chưa xâm nhập vào trong nên chưa làm tổn thương cơ thể nên không có triệu chứng. Trong trường hợp này, vi sinh vật gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể bất cứ lúc nào và có khả năng làm lây lan ra môi trường xung quanh rất lớn.
COVID-19 không triệu chứng
Ðối với COVID-19 cũng không nằm ngoài quy luật “người mang mầm bệnh không triệu chứng” như trên nhưng mức độ của người mang SARS-CoV-2 không triệu chứng này nguy hiểm hơn rất nhiều, bởi dịch bệnh đã diễn ra khắp toàn cầu, đã có hàng trăm ngàn người tử vong và nguy cơ hàng triệu người nhiễm SARS-CoV-2, trong khi đó sự giao lưu, đi lại giữa các châu lục bằng nhiều phương tiện khác nhau lại rất dễ dàng, thuận tiện, vì vậy, mức độ tiếp xúc là cực kỳ lớn và mức độ lây lan mầm bệnh là khó tiên đoán cụ thể được. Thêm vào đó phương pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất là dùng vắc-xin để phòng SARS-CoV-2 chưa có và thuốc điều trị hữu hiệu cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu.
Vậy đứng trước nguy cơ diễn biến dịch trên thế giới vẫn rất phức tạp, đặc biệt là vấn đề nhiễm covid-19 không triệu chứng, đòi hỏi vấn đề chống dịch sang giai đoạn mới vẫn còn phải cảnh giác cao. Các cấp, các ngành, các địa phương phải luôn đề cao cảnh giác, không lơ là, chủ quan, quyết không để dịch bệnh trở lại. Trong đó kiên quyết ngăn chặn nguồn bệnh xâm nhập từ nước ngoài. Tất cả người nhập cảnh đều phải được cách ly tập trung 14 ngày; trừ các trường hợp là nhà đầu tư, chuyên gia, lao động tay nghề cao thì có biện pháp cách ly phù hợp, chủ doanh nghiệp, cơ quan y tế địa phương chịu trách nhiệm giám sát việc cách ly các trường hợp này.
Hiện nay cả nước đã bước sang giai đoạn mới phòng, chống dịch bệnh đồng thời với khôi phục, phát triển nền kinh tế. Từ các cấp, các ngành cho đến từng người dân, doanh nghiệp đều cần xác lập tình trạng bình thường mới trong các hoạt động kinh tế - xã hội để dần đưa xã hội trở lại bình thường trên tinh thần tập trung đẩy mạnh các hoạt động phục hồi kinh tế vừa chống dịch hiệu quả.